Page 85 - Giới Thiếu Thị Trường Thổ Nhĩ Kỳ
P. 85
Liên minh thuế quan giữa Thổ Nhĩ Kỳ và EU có hiệu lực
ngày 01/01/1996 theo Quyết định số 1/95 của Hiệp định hiệp hội
Thổ Nhĩ Kỳ – EU. Liên minh thuế quan đề ra mức thuế chung
cho các nước liên quan đối với các sản phẩm được đề cập và dự
định Thổ Nhĩ Kỳ sẽ theo đúng các chế định có liên quan đến
thương mại với EU trong nhiều công việc trọng tâm mà quan
trọng là thâm nhập thị trường, ví dụ như tiêu chuẩn sản phẩm.
Liên minh thuế quan áp dụng đối với tất cả các sản phẩm công
nghiệp cũng như các yếu tố cấu thành của sản phẩm nông
nghiệp chế biến, khía cạnh quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến
thương mại (TRIP) và chính sách cạnh tranh, nhưng không bao
hàm nông sản, dịch vụ hoặc mua sắm chính phủ. Không như các
thành viên của khu vực kinh tế châu Âu, Thổ Nhĩ Kỳ còn tùy
thuộc vào các biện pháp chống bán phá giá và bù trừ do EU tiến
hành. Thương mại nông sản được điều tiết phù hợp với quyết
định số 1/98 của Hội đồng hiệp hội. Thổ Nhĩ Kỳ và EU đã thiết
lập một khu vực mậu dịch tự do từ năm 1996 cho các sản phẩm
của Cộng đồng than và thép châu Âu.
Thổ Nhĩ Kỳ được cấp quy chế ứng cử là thành viên EU
tại Hội đồng châu Âu Helsinki năm 1999. Trên cơ sở thực hiện
một số điều kiện nhất định, các thành viên EU tuyên bố “mở
rộng và làm sâu sắc” Liên minh thuế quan và mở các cuộc đàm
phán gia nhập với Thổ Nhĩ Kỳ tại Hội đồng châu Âu
Copenhagen tháng 12/2002. Các cuộc đàm phám bắt đầu ngày
03/10/2005. Tháng 9/2011, 13 chương đàm phán đã được mở và
việc đàm phán một trong số các chương này đã sơ bộ kết thúc.
(c) Hiệp định thương mại tự do với EFTA
EFTA bao gồm 4 nước Iceland, Liechtenstein, Norway
and Switzerland. Hiệp định thương mại tự do giữa Thổ Nhĩ Kỳ
và Khu vực thương mại tự do châu Âu (EFTA) được dựa theo
mô hình không đối xứng tương tự như Liên minh thuế quan giữa
77