Page 84 - Giới Thiếu Thị Trường Thổ Nhĩ Kỳ
P. 84

Malaysia,  Kosovo,  Moldova,  Dem.  Rep  of  Congo,  Ghana,
          Cameroon,  Seychelles,  Hội  đồng  Hợp  tác  vùng  Vịnh  –  GCC
          (hiện nay Thổ Nhĩ Kỳ đã ngừng tất cả các cuộc đàm phán FTA
          với GCC), Libya, Mercosur và Quần đảo Faroe. Hơn nữa, Thổ
          Nhĩ Kỳ đã đưa ra sáng kiến để mong muốn đàm phán với 12
          quốc gia/khối nước, trong đó có Mỹ, Canada, Nhật Bản, Ấn Độ,
          Indonesia, Việt Nam, Peru, các nước Trung Mỹ, các nước ACP
          (African, Caribbean and Pacific Group of States) khác, Algeria,
          Mexico và Nam Phi.

                 Thổ Nhĩ Kỳ xác định FTA là công cụ cuối cùng để mang
          lại  sự  thịnh  vượng  cho  quốc  gia  bằng  cách  thiết  lập  một  môi
          trường dẫn đến sự gia tăng bền vững trong ngoại thương. Điều
          này được chứng minh qua các con số thống kê: Trong giai đoạn
          2000 - 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ tăng
          446%, riêng xuất khẩu sang các đối tác FTA (các FTA có hiệu
          lực trước năm 2013) tăng đến 559% (2,2 tỷ USD năm 2000 lên
          14,5 tỷ USD năm  2012). Cũng trong  giai đoạn  này, tổng kim
          ngạch nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ tăng 340%, riêng nhập khẩu
          từ các đối tác FTA tăng 282% (2,8 tỷ USD năm 2000 lên 10,7 tỷ
          USD năm 2012.

                 (b) Liên minh thuế quan với EU
                 Thổ Nhĩ Kỳ ký một Hiệp định mang tính hiệp hội với
          EU  năm  1963.  Lịch  trình  cho  việc  thành  lập  Liên  minh  thuế
          quan được lui lại tới khi có được một nghị định thư bổ sung vào
          năm 1973. EU đã nhất trí loại trừ toàn bộ thuế quan và các biện
          pháp  tương  đương  về  các  sản  phẩm  riêng  biệt  khi  các  điều
          khoản liên quan đến thương mại của Hiệp định tạm thời thuộc
          Nghị định có hiệu lực vào tháng 9/1971, theo đó Thổ Nhĩ Kỳ có
          thời gian chuyển tiếp là 22 năm.



          76
   79   80   81   82   83   84   85   86   87   88   89