Page 645 - Di Tích Lịch Sử
P. 645

nhiều đại thần cựu trào cùng sĩ phu và nhân dần ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà
     Tiên. Từ đó đến nay, Văn Thánh Miếu Vĩnh Long được trùng tu, tôn tạo vào các năm
     1872,  1903,  1914,  1933,  1963 và  1994. Tuy đã nhiểu lần được trùng tu, tôn tạo nhưng
     \^n Thánh Miếu Vĩnh Long vẫn giữ được vẻ đẹp tôn quý, thanh cao. Cổng Tam quan
     của văn Thánh Miếu uy nghi trên đường Trần Phú bên dòng sông yên tĩnh. Năm 1928,
     cổng làm bằng cột gỗ mái ngói. Năm  1936, được xây hai trụ cổng với đôi liễn mang
     những hình ảnh thơ mộng:
                   Liễu phố tân sào nha tháo nguyệt
                   Hạnh đàn cửu chỉ mã tê phong
                   (Nơi bờ sông, trên cây liễu bầy quạ thấy trăng kêu rộ
                   Chốn sân hạnh, nhớ chuồng cũ lũ ngựa nghe gió thổi hí vang).
         Tới năm 1964, được thay bằng đôi liễn mới:
                   Khổng môn truyền đạo thiên ban thượng
                   Thánh Miếu sùng văn vạn đại tôn
                   (Đạo truyền của Khổng Thánh trên ngàn bực
                   Miếu Thánh sùng văn cả vạn năm).
         Hai hàng cây cao thẳng tắp tạo cho khuôn viên vườn cảnh và khu di tích một bê'
     sâu và không khí uy nghi trầm mặc lạ lùng. Con đường nhỏ dưới hai hàng cây dẫn tới
     Khổng Thánh Miếu -  đền thờ Đức Khổng Tử. Trên con đường đó, giữa hoa lá đan xen,
     khách có thể chiêm ngưỡng ba tấm bia đá đã phôi pha với thời gian. Trước cổng đền
     là tấm bia ghi văn tài của cụ Phan Thanh Giản, mặt trước nêu lí do dựng miếu, xưng
     tụng công đức Thánh Nhân và triều đình, mặt sau dương danh những người có công.
     Hai bia khác đứng gần nhau ở phía ngoài nói về những nhân sĩ, thân hào và người có
     công trùng tu, cúng hiến cho Văn Thánh Miếu. Hai công trình quan trọng ở khu di tích
     này là Khổng Thánh Miếu và Văn Xương Các.
         Khổng Thánh Miếu trước kia đơn sơ, cột cây mái ngói trên nển đất. Năm  1903
     mới được thay bằng cột gỗ căm xe, lót gạch tàu, lợp ngói đại và ngói ống. Trong đền,
     ở gian chính giữa, trong cùng là bàn thờ Đức Khổng Tử -  vị tổ của đạo Nho. Khổng
     Tử quê ở làng Bình Xương, huyện Khúc Phụ (nước Lỗ, nay là tỉnh Sơn Đông Trung
     Quốc), sinh năm 551 và mất năm 479 trước Công Nguyên, thọ 73 tuổi. Ngài đã làm
      quan và giữ những chức vụ quan trọng ở nhiều nước như Tề, Vệ, Sở, Tống. Vể già, ngài
     trở vê' nước Lỗ, mở trường dạy học ở đất Hạnh Đàn.  Đời sau tặng ngài nhiêu danh
     hiệu như Vạn Thế Sư Biểu, Đại Thành Chí Thánh,  Thánh  Văn,  Thánh Nhân,...
         Học thuyết của Khổng Tử hay đạo Nho là nền tảng cho đạo trị nước của các triều
      đại phong kiến, vì vậy các vua Trung Quốc đều lập miếu thờ và cúng tế ngài. Tư tưởng
      Nho giáo được truyền sang nước ta đã góp phần không nhỏ cho nển văn hoá và học
      thuật nên các vị vua nhà Lý, nhà Trần cũng lập miếu thờ Đức Thánh "V^n. Học trò của
      Khổng Tử có trên 3.000 người, những người vượt trội cũng được thờ trong đền này:
      Trước bàn thờ Khổng Tử là bài vị bốn học trò giỏi nhất (Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử
      và Nhan Tử), hai bên là bài vị 12 học trò giỏi và hai bên phía ngoài sần đển thờ 72 đệ
      tử đắc ý của ngài.


                             Một » ố  w  ticVi lỊcli sử -  VÀM VioÁ Việt M A m
                                        (   65 4  )
   640   641   642   643   644   645   646   647   648   649   650