Page 611 - Di Tích Lịch Sử
P. 611

A, B, c, D; được gọi là “Căng Cây Dừa” (Trại Cây Dừa). Những chiến sĩ cách mạng bị
  địch bắt ở các chiến trường Trung, Nam, Bắc bị chúng tập trung đưa ra trại giam này
  ở Phú Quốc, khoảng 14.000 người, phẩn đông từ “Căng” Đoạn Xá (Hải Phòng), được
  chở ra Phú Quốc bằng tàu thủy.
      Ngay từ những ngày đầu tiên đến “Căng Cầy Dừa”,  các đảng viên trong các khu
  nhà giam đã liên lạc với nhau, tổ chức được các chi bộ, Đảng bộ bí mật lãnh đạo anh
  em tù binh đấu tranh với địch, từ việc cử đại diện tù binh, tổ chức, lao động, sinh hoạt
  đến đấu tranh chống địch khủng bố, đàn áp, chống dụ dỗ lôi kéo bắt lính trong tù, tổ
  chức vượt ngục,... Chỉ hơn một năm ở trại giam đã có 99 người chết, gần 200 người
  vượt ngục. Một số anh em thoát ra, được tham gia chiến đấu và công tác ở đảo, góp
  phần làm nên những chiến thắng của quân dân  Phú Quốc.  Một số về chiến đấu và
  công tác ở đất liền.
      Tháng 7/1954, sau khi Hiệp định Genève được kí kết, Pháp đã trao trả cho phía
  cách mạng hầu hết tù binh ở trại này.
      Cuối năm 1955, trong lúc giao thời “thay thầy đổi chủ”, ngụy quyển Sài Gòn tranh
  thủ lập một trại giam cũng ở địa điểm “Căng Cầy Dừa” cũ, trên một diện tích  rộng
  4ha, gồm có nhà giam tù nam, nhà giam tù nữ, nhà giam phụ lão, được chúng đặt tên
  là “Trại huấn chính Cây Dừa”, có lúc gọi là “Nhà lao Cây Dừa”. Đầu tháng 1/1956, ngụy
  quyển Sài Gòn đưa 598 người tù, quê quán từ 33 tỉnh ở trại “Trung tâm huấn chính
  Biên Hoà” đến đê' lao Gia Định, rồi đưa xuống chiếc tàu vận tải của hải quân, mang tên
  Hắc Giang, rời bến Sài Gòn ngày 2/1/1956.
      Khi chiến tranh Việt Nam leo thang, số tù binh và tù chính trị tăng cao, chính quyền
  Việt Nam  Cộng hoà xây dựng thêm nhiều trại  giam  tù binh  ở  Biên  Hoà,  Pleiku,  Đà
  Nẵng, Cần Thơ, Quy Nhơn,... Tại Phú Quốc, năm  1966, một trại giam rộng hơn 400ha
  được xảy dựng ở thung lũng An Thới, cách “Căng Cây Dừa” cũ 2km. Trại giam gồm 12
  khu, mỗi khu có 4 phân khu A, B, c, D, với trên 400 nhà giam. Mỗi phần khu, ngoài 9
  phòng để tù binh ở, có 2 phòng để thẩm vấn, phạt vạ hoặc biệt giam tù binh,...
      Năm 1972, trại giam có tất cả là 12 khu được đánh số từ khu 1 đến khu 12, mỗi khu
  lại được chia thành nhiểu phân khu, thường có khoảng 4 phân khu trong  1  khu. Mỗi
  khu trại giam có khả năng chứa khoảng 3.000 tù nhân. Một phần khu chứa được 950 tù
  nhân. Riêng phần khu B2 dành riêng để giam giữ các sĩ quan tù binh có cấp bậc lớn nhất
  là Thượng tá. Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc do 3 tiểu đoàn quân cảnh (7,8,12)
  canh giữ. Bao quanh mỗi khu nhà lao là hàng rào kẽm gai 10 -  15 lớp ken dày, mắc dày
  đặc bóng đèn điện. Bên cạnh bộ máy cai ngục, lúc cao nhất tới bốn tiểu đoàn lính gác
  trang bị đẩy đủ vũ khí và phương tiện cơ động, canh giữ, tuần tiễu ngày đêm.
      Cuối năm 1972, xây thêm khu 13,14. Đến đẩu năm 1973 thì Hiệp định Pari kí kết.
  Trại giam khống còn hoạt động nữa. Ngày nay nhà giam gần như hoang phế, chỉ còn
  lại đổng cỏ tranh mênh mông với vài trụ xi măng xiêu vẹo và nền gạch loang lổ, xa xa
  vài căn nhà mới mọc lên. Ngoài ra, Phú Quốc cũng có một trại giam tù hình sự, giam
  giữ những tù nhân thường phạm bị kết án 10 năm trở lên, ở thị trấn Dương Đông, mặt
  tây của đảo.

                         Một «ồ í>i ticVi lịcVt sử -   VÃM Vioá Việt
                                    ( 620 >
   606   607   608   609   610   611   612   613   614   615   616