Page 553 - Di Tích Lịch Sử
P. 553

đổ, các cư sĩ Phật giáo tín nhiệm. Hoà Thượng là người sáng lập ra Nam Kì Phật học
      hội và Lưỡng Xuyên Phật học hội quy tụ nhiểu cao tăng, cư sĩ Phật giáo ở Nam Kì lúc
      bấy giờ, đồng thời là chủ bút tạp chí Từ bi ầm, giám đốc Phật học tùng thư.
          Năm 1930, nhân dịp chùa được trùng tu, hoà thượng Lê Khánh Hoà đổi tên Tiên
      Linh tự thành Tuyên Linh tự. Từ đấy chùa được gọi bằng tên mới; Tuyên Linh.
          Theo tài liệu của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Đổng Tháp, khoảng cuối năm
      1926, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc -  thân sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh -  đã cùng một
      vị cao tăng của chùa Từ Đàm ở Huế ghé lại và tá túc tại chùa Tuyên Linh một thời gian.
          Theo  sư Thái Không, cụ Phó bảng được sự bao bọc,  giúp  đỡ của hoà thượng Lê
      Khánh Hoà, trong thời gian lưu trú tại chùa, đã mở lớp dạy học, xem mạch, bốc thuốc
      cho nhân dân trong vùng. Tuy thời gian ở đầy không lầu, cụ Nguyễn Sinh sắc đã gặp
      gỡ với nhiều nhà cách mạng như Trần Vần An, Huỳnh Khắc Mẫn, Lê Văn Phát. Nhiều
      người trong số này vể sau trở thành lớp đảng viên đẩu tiên của Đảng bộ Bến Tre (1930).
      Năm  1929, cụ Phó bảng lâm bệnh và bị bọn mật thám Pháp theo dõi nên Hoà thượng
      Lê Khánh Hoà đã tìm cách đưa cụ về Đổng Tháp. Theo lời kể của những người lớn tuổi
      ở xã Minh Đức thì tên gọi Tiên Linh tự được nhà sư Lê Khánh Hoà đổi lại Tuyên Linh
      tự năm 1930 theo sự góp ý của cụ Phó bảng. Cụ giải thích rằng: Tuyên là tuyên truyền.
          Khi  Cách  mạng  tháng Tám  -   1945  thành  công,  hoà thượng  Lê  Khánh  Hoà  đã
      động viên các nhà sư và tín đổ Phật giáo trong tỉnh tham gia vào các hoạt động cách
      mạng và kháng chiến. Năm 1947, do tuổi già sức yếu, trên giường bệnh, ông bình tĩnh
      đọc lời di ngôn cho môn đổ chép lại, sắp xếp công việc đạo, căn dặn học trò thân tín
      vận động tín đồ tích cực tham gia kháng chiến, tin tưởng vào Chính phủ Cụ Hổ, cùng
      đồng bào cả nước đấu tranh giành độc lập. Sau đó, ngày 19/6/1947, hoà thượng đã viên
      tịch trong niếm tiếc thương vô hạn của các học trò và tín đồ yêu nước.
          Nàm  1956, để tỏ lòng tôn kính một vị chân tu yêu nước, giáo hội Phật giáo tăng
      già và Lục hoà tăng đã cùng các tín đồ tổ chức lễ Trà tì (tức lễ thiêu hài cốt đưa tro vào
      bảo pháp) tại chùa Tuyên Linh.
          Thời kì kháng chiến chống Pháp, chùa Tuyên Linh là cơ sở nuôi giấu cán bộ cách
      mạng.  Trong những  năm trước  Đồng khởi,  trong thế kìm kẹp khác  nghiệt  của Mỹ,
      Diệm,  vùng  Tần  Hương  -   Minh  Đức,  nơi  có  ngôi  chùa  Tuyên  Linh,  vẫn  là  nơi  có
      phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ. Các cơ quan Huyện uỷ Mỏ Cày và Tĩnh uỷ
      Bến Tre đã từng trú đóng tại đây trong sự đùm bọc của nhân dần và tín đồ đạo Phật
      giáo giữa những ngày khó khăn nhất của cách mạng. Vì chùa Tuyên Linh là nơi che
      giấu, nuôi dưỡng cán bộ cách mạng qua cả hai cuộc kháng chiến của dân tộc nên đã
      hai lần bị giặc dùng máy bay ném bom, phá hủy và đốt chùa.  Sau chiến tranh, chùa
      được  trùng  tu  nhiểu  lần và  được  xây mới vào  năm  1999  trên  nền  cũ với  diện  tích
      khuôn viên chùa trên 9.000m^.
          Ngày 19/5 hàng năm, chùa Tuyên Linh tưng bừng diễn ra ngày hội thiêng liêng. Lễ
      hội được tổ chức trang nghiêm, thành kính, họp mặt truyển thống, thắp hương tưởng
      niệm tại bàn thờ cụ Phó bảng và cụ Tổ Khánh Hoà, đồng thời tổ chức nhiều hoạt động
      văn hoá, văn nghệ tạo không khí vui tươi phấn khởi trong ngày hội.

                             Một fấ bi tícVi lỊcti tử -  VẲM VioẮ Việt "Naim

                                        C   562  >
   548   549   550   551   552   553   554   555   556   557   558