Page 482 - Di Tích Lịch Sử
P. 482

chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 -  1975). Ngày nay, nhiều người hiểu “Tam giác sắt”
   rất khác nhau.  Có người cho rằng đó là vùng Tây Nam Bến Cát, cũng có người cho
   rằng nó bao gổm phần đất Tây Nam Bến Cát -  Dầu Tiếng -  Long Nguyên. Rộng hơn
   nữa, lại cho rằng nó kéo dài từ Long Nguyên  (Bến Cát)  -  Trảng Bàng (Tây Ninh) và
   Củ Chi (Thành phố Hổ Chí Minh). Tất cả đểu đúng, vì địa danh “Tam giác sắt” cùng
   phát triển theo bước phát triển của cuộc chiến tranh. Nhưng nguổn gốc ban đầu của
   “Tam giác sắt” chính là địa bàn của ba xã: An Điển, An Tây, Phú An (huyện Bến Cát,
   tỉnh Bình Dương).
       Trong thời kì kháng chiến  chống Mỹ, nhiều lẩn Mỹ nguy đã đưa quân đến  càn
   quét vùng đất Tây Nam  Bến  Cát với những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất,
   quân đội tinh nhuệ nhất và cường độ bom đạn dày đặc. Trong mưa bom bão đạn của
   kẻ thù, quân và dân Bến Cát vẫn đứng vững nhờ hệ thống địa đạo quanh co, chằng chịt
   và kiên cố. Sau những thất bại liên tiếp, địch bất lực trước sức chống cự mãnh liệt của
   quân và dân ta, chúng gọi vùng địa đạo là “Tam giác sắt”. Do đó, địa đạo Tây Nam Bến
   Cát không chỉ là địa danh mà nó còn là biểu tượng cho tinh thần thép, ý chí chiến đấu
   kiên cường của nhân dần ta.
       Điểu đặc biệt và lí thú là vào năm  1948, hệ thống địa đạo đầu tiên xuất hiện từ
   vùng đất này. Sau đó năm 1960, du kích Củ Chi đến học tập kinh nghiệm và xây dựng
   hệ thống địa đạo ở địa phương mình.
       Với phương tiện thô sơ là lưỡi cuốc và chiếc ky xúc đất bằng tre, quân và dân ba
   xã Tây Nam Bến Cát đã tạo nên công trình đổ sộ với hàng trăm con đường hầm ngang
   dọc trong lòng đất, nối liền các xã với nhau như một “Làng ngầm” kì diệu. Đây là một
   công trình độc đáo, chỉ riêng việc chuyển tải hàng vạn mét khối đất đem đi phi tang ở
   nơi khác để giữ bí mật địa đạo đã là chuyện vô cùng gian khổ, công phu, là biểu hiện
   sự đổng tâm hiệp lực của quân dân.  Các gia đình ở khu vực vành đai, nhà nào cũng
   đào hầm, hào nối liển vào địa đạo, tạo thế liên hoàn để vừa bám trụ sản xuẫt vừa đánh
   giặc giữ làng.
       Đường xương sống  -   đường chính  của địa đạo  cách  mặt  đất 4m.  Trong đường
   hầm này có chiểu cao l,2m, rộng 0,8m. Có những đoạn được cấu trúc từ 2 đến 3 tầng,
   chỗ lên xuống có nắp đậy bí mật. Trong địa đạo có những nút chặt ở những điểm cẩn
   thiết; dọc theo đường hầm có lỗ thông hơi  ra ngoài được ngụy trang kín đáo.  Xung
   quanh cửa hầm bí mật lên xuống được bố trí nhiểu hầm chông, hố đinh, mìn trái, có cả
   mìn lớn chống tăng và mâm phóng lựu đạn chống máy bay trực thảng đổ chụp nhằm
   ngàn chặn địch tới gần.
       Liên hoàn với địa đạo có các hẩm rộng để nghỉ ngơi sau chiến đấu; có nơi dự trữ
   vũ khí, lương thực thực phẩm, nước uống, có giếng nước, hầm nấu ăn, hầm làm việc,
   chỉ huy, hầm nuôi dưỡng thương binh, v.v...
       Đường xương sườn (các nhánh phụ), được đào từ đường chính vể các ấp. Đi liến
   với các nhánh phụ là các ô ụ chiến đấu.  Mỗi nhánh phụ dài  Ikm với 3 ụ chiến đấu.
   Xung quanh ô ụ chiến đấu có bố trí các hầm chông, mìn được ngụy trang cẩn thận.
       Với hệ thống địa đạo dài gần  lOOkm, khoảng 50 ô ụ chiến đấu và nhiều hẩm để

                          Một sả bi ticVi lỊcVi svr -  VẲM VioÁ việt NAm
                                     c  4 9 0   >
   477   478   479   480   481   482   483   484   485   486   487