Page 425 - Di Tích Lịch Sử
P. 425

(Ama có nghĩa là Cha). Năm  1924, họ gọi xóm người Việt di cư đến là Lạc Giao với ý
           nghĩa: Lạc là con Lạc cháu Hổng, Giao nghĩa là nơi bang giao Kinh -  Thượng. Tên gọi
           Lạc Giao là lời nguyền giao ước an cư lạc nghiệp của đổng bào Kinh -  Thượng, cùng
           chung lưng đấu cật xây dựng vùng đất mới này. Có truyền thuyết cho rằng, Lạc Giao
           có nghĩa là ngày đầu lên Buôn Ma Thuột ông Phan Hộ' gặp gỡ giao lưu với người Êđê
           bản địa rất vui vẻ, tình cảm, ông đã đặt luôn tên đình. Năm  1925, làng Lạc Giao được
           mở rộng bao trùm cả một khu vực rộng lớn ở ngay trung tâm Buôn Ma Thuột.
               Trong những năm  1928  -   1930,  thực dần  Pháp tìm mọi cách ngăn cấm  người
           Kinh  lên  Buôn  Ma  Thuột và  Tây Nguyên  nhưng  ông  Phan  Hộ  và  một  số  thương
           nhân, lúc đi ngựa, có lúc đi voi vẫn tìm được cách đi lại, buôn bán, trao đổi hàng hoá
           với người Êđê. Qua gặp gỡ giao lưu với các già làng Êđê và được sự giúp đỡ của Ama
           Thuật, ông Phan Hộ đã làm quen với nhiều người và gây được những thiện cảm tốt.
           Ông  nhận thấy Buôn  Ma  Thuật là vùng  đất  rộng,  bằng  phẳng,  màu  mỡ  rất thuận
           tiện  cho việc  chăn  nuôi,  trồng trọt,  phát triển  đời  sống.  Đến  năm  1928,  ông quay
           vể Khánh Hoà rủ thêm gần chục người là anh em, họ hàng, con cháu đến Buôn Ma
           Thuột thành lập làng, xây dựng mái đình lấy tên là “Lạc Giao”  (đến bây giờ ở Buôn
           Ma Thuột chỉ còn vài người cháu ông Phan Hộ). Đình được xây dựng vào năm 1928,
           bằng tranh tre theo tập tục của người Kinh xa quê hương đến lập nghiệp ở vùng đất
           mới. Theo lời các bô lão làng Lạc Giao, năm  1932 ngôi đình được xây dựng lại bằng
           gạch lợp ngói theo hình chữ Môn, kiểu kiến trúc lòng thuyền trí trụ, hổi văn,  mái
           bổ câu, trên y môn khắc chạm tứ linh, tứ quý, bờ nóc đắp lưỡng long hàm thực, mái
           trung đắp cách điệu lưỡng áng vần vọng nguyệt, gốc mái hiên hổi đắp áng vần cách
           điệu. Diện tích ban đầu của khu đình khoảng 700m^. Lối vào chính điện được trang
           hoàng hai câu đối, phía trước có cổng tam quan đi vào, sau cổng là bức bình phong
           có chạm khắc hổ phù, sau nữa là một lư hương lớn.  Hai bên chính điện là hai dãy
           nhà. Dãy nhà bên trái là điện thờ Thành hoàng, trong đó có thờ các linh nam, linh
           nữ.  Dây nhà bên phải là nơi tiếp khách, trưng bày chứng tích.  Đình đã được trùng
           tu nhiều lẩn, mới nhất là năm 2004.
               Năm  1932, vua Bảo Đại ra chiếu sắc phong cho Thần hoàng của làng là Đào Duy
           Từ, một danh nhân văn hoá, một tài năng lớn trong nhiểu lĩnh vực: chính trị, quân sự,
           kinh tế, văn hoá...  Đặc biệt ông là người có công mở mang đất nước, xây dựng nên
           nhiều vùng đất mới nhưng chưa một lẩn đặt chân tới cao nguyên này. Việc đình Lạc
           Giao được Bảo Đại ban Sắc tứ Thần hoàng làng mang ý nghĩa lớn lao, như nhắc nhở
           mọi người dân đang sinh sống nhớ lấy cội nguổn quê hương và trách nhiệm,  nghĩa
           vụ của mỗi người dân trên vùng đất mới, đổng thời muốn ghi ơn người có công khai
           khẩn đất hoang mở mang bờ cõi, mong ông phù hộ cho những người dân miến Trung
           lên lập nghiệp trên quê mới. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, điểu này thể hiện sự tranh
           giành ảnh hưởng của triều đình phong kiến Việt Nam đối với chế độ tự trị Tây Nguyên
           của thực dân Pháp, khẳng định đây là đất của “Hoàng Triều cương thổ”.
               Như vậy, đình Lạc Giao ra đời ghi dấu bước chân của người Việt trên mảnh đất
           cao nguyên, là nơi mọi người cầu mong sức khoẻ và làm ăn phát đạt, nơi thờ các vị

                                   Một 5ố w  tíclt lịcVi siV -  VẲM VioẢ Việt N avm
                                             (   432  >
   420   421   422   423   424   425   426   427   428   429   430