Page 26 - Di Chỉ Của Nền Văn Minh Xưa
P. 26
một bàn 5 ngón. 2 bàn là 10 ngón. Độ dài đầu tiên là
“xích", đó là độ dài cúa chân. Thế kv 3 trước công
nguyên, với sự ánh hưởng của “hệ thống ký hiệu con số
Atica" Hy Lạp. người La Mã đã sáng tạo ra cách ghi sô'
độc đáo của mình, về sau, người La Mã đánh bại Hy
Lạp trở thành bá chú vãn minh ở Địa Trung Hải. Tiếng
Hy Lạp dùng để làm ngôn ngữ cho số học nay bị dừng
lại, thay vào đó là trong phạm vi của đế quốc La Mã
thống trị thì hệ thống ký hiệu con số của La Mã đã được
dùng rộng rãi.
Cách ghi của La Mã là dùng hệ thống đơn vị 10
và đơn vị 5 kết hợp với nhau. Trong 7 ký hiệu cơ bản
thì có 4 ký hiệu (I. X, c. M) được xác lập trong hệ
thống ký hiệu số 10 dể tính toán, còn lại 3 ký hiệu (V,
L, D) xây dựng trên hệ thống ký hiệu 3. Cách tính số
của La Mã kéo dài mãi cho tới ngày nay. Thế kỷ 15,
trong cách ghi số này không những dùng thêm phép
cộng (như: 11 viết là: XI) mà còn dùng cả cách trừ
(như: 9 viết thành IX), như vậy dã giản hóa được cách
viết con số. ví dụ như: 4 viết là IV chứ không phải viết
là 4 số I nữa.
Nguồn gốc của ký hiệu số La Mã có 2 loại: Một là
dùng ngón lay đê’ tính toán, ví dụ: 1, dùng 1 ngón tay. số
5 thì xòe cá bàn tay 3 ngón. Số 10 thì xòe cả 2 bàn tay
là 10 nưón. Hai lù: Dùng chữ cái đầu tiên trong phiên
âm con số. ví dụ: c (100 - Centum) M (1000 - Mille).
song còn ký hiệu L và D thì không rõ nguồn gốc. Dưới
đây là ký hiệu số La Mã:
27