Page 169 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 169
Thực trạng chính sách thương mại........giai đoạn 2001 - 2011
trong việc phân luồng tự động không hợp lý như chậm nộp
thuế đã được sửa đổi.
Chi phí không chính thức trong việc thực hiện các thủ
tục hải quan trước đây đã từng là vấn đề nổi cộm đối với
ngành hải quan thì đến nay đã được cải thiện đáng kể. Tuy
vậy, vẫn còn tới 1/3 DN cho rằng khoản chi phí này quá
nhiều, còn là gánh nặng đối với DN. Chi phí không chính
thức cho việc xin các giấy phép XNK có khả quan hơn khi
chỉ có 10% DN cho là còn mất nhiều.
Đối với hàng nhập khẩu, từ ngày 1/10/2004 hải quan đã
áp dụng giá tính thuế nhập khẩu theo hợp đồng, hoá đơn mua
hàng. bảng giá tối thiểu chỉ có tính chất tham khảo. Thực tế
cho thấy, việc áp giá trị tính thuế nhiều khi không theo quy
định này mà do hải quan áp đặt. Những mặt hàng có tính chất
nhạy cảm, khó xác định giá trị hay xảy ra tình trạng này. Bên
cạnh đó, việc áp mã tính thuế nhập khẩu cũng là vấn đề mà
nhiều DN cho là có sự tuỳ tiện của cán bộ hải quan.
Đối với hàng hoá xuất khẩu, các thủ tục hải quan là
tương đối thuận lợi và các DN không gặp nhiều vướng mắc.
Đây cũng là chủ trương chung của nhà nước về khuyến khích
xuất khẩu. Xin chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O) trước đây
cũng mất khá nhiều thời gian, phức tạp. Đến nay, việc cấp
giấy chứng nhận này đã được cải thiện, tạo điều kiện thuận
lợi cho các DN.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến những tồn tại trong lĩnh
vực hải quan lại được các DN cho rằng đó là do hạn chế của
cán bộ thực thi công vụ. Các quy định pháp luật, thủ tục hành
chính cũng như việc tiếp cận các thông tin này cũng còn hạn
chế nhưng không nhiều. Có tới trên 35% DN đánh giá trình
169