Page 24 - Chăm Sóc Sức Khoẻ Bằng Y Học Cổ Truyền
P. 24

loại  mang  tính  mắt  (lương)  có  loại  mang  tính  âm
     (ôn) bô huyết và hóa ứ cũng có tác  dụng chỉ huyết.
     Ngày  nay  danh  từ  chỉ  huyết  chỉ  dùng  cho  các
     trường hợp xuất huyết cục bộ.
         Chứng  xuất  huyết  ban  đầu  không  dùng  các
     thuốc lương huyết để chỉ huyết, đề phòng ứ huyết ở
     bên trong.  Trường hợp bị ứ huyết tạo thành những
     đám  màu  tía  hoặc  đen  không  nên  dùng  các  bài
     thuốc có tác dụng chỉ huyết đơn thuần.  Dùng thuôc
     hàn lương kéo dài đê làm tổn thương đến tỳ dương,
     tỳ dương bị thương tổn sẽ làm cho huyết không lưu
     thông trong kinh mạch được.

         a.  P hép  th a n h   nhiêt chỉ huyết
         Triệu chứng: Tâm  phế, can, vị có nhiệt gây nên
     thô ra máu, chảy máu mũi...
         Thuốc  thường  dùng:  Sinh  địa,  xích  thược,  đơn
     bì,  hắc  sơn  chi,  hoàng  cầm,  hoàng  hên,  ngân  hoa,
     trắc  bá  diệp,  sơn  tra  hoa,  ngẫu  tiết,  mao  hoa,  tỳ
     thảo, tiền hạc thảo.
         Hầu hết ngoại cảm ôn tà và nội thương gây nên
     có  thể  làm  cho  huyết  nhiệt  vọng  hành;  loại  xuất
     huyết  này  thường  là  nôn  ra  máu,  chảy  máu  mũi,
     máu  có  màu  hồng  tía.  Điều  trị  nên  thanh  tiết
     huyết  nhiệt.  Dùng  bài  thanh  nhiệt  giải  độc  thang
     gồm:  sinh  địa,  xích  thược,  đơn  bì  để  thanh  huyết
     nhiệt  làm  chủ  và  sau  đó  nên  căn  cứ  vào  nhiệt  ỏ
     tạng  phủ  nào  mà  gia  giảm  thêm  hoàng  liên,  sơn


                                                           25
   19   20   21   22   23   24   25   26   27   28   29