Page 21 - Chăm Sóc Sức Khoẻ Bằng Y Học Cổ Truyền
P. 21

thường  dùng thêm  các  thuốc  kiện  tì,  hòa  trung  để
          đề phòng ảnh hưởng đến tiêu hóa.
              Thuốc bổ huyết thường có tính cay,  ấm,  trường
          hợp  huyết  hư  gây  nội  nhiệt hoặc  có  các  chứng can
          dương vượng thì phải kiêng kỵ.

              a. Phép tư can dưỡng huyết:
              Triệu  chứng:  Người  gầy,  hoa  mắt,  chóng  mặt,
          sắc mặt không sáng sủa, người mệt mỏi.
              Thuốc  thường  dùng:  Đương  qui,  bạch  thược,  a
          giao, thủ ô, đồng sa uyển thỏ ty tử, long nhãn.

              Bài  thuôc  dưỡng  huyết  thường  dùng  là  bài  Tứ
          vật  gồm  có:  thục,  thược,  khung  qui.  Người  xưa  chỉ
          rõ khí hậu bốn mùa:  xuân,  hạ,  thu,  đông khác nhau
          nên việc gia giảm theo mùa là một việc cần thiết.
              Khi  gia  giảm  có  thê  thay  đối  vê  tính  chất  của
          bài  thuốc.  Ví  dụ  như  đơn  dụng  hoặc  dùng  nhiều
          thục,  thược  đê  tứ âm.  Dùng riêng khung,  qui  hoặc
          dùng nhiều hơn về hoạt huyết.  Nói chung đê có tác
          dụng  dưỡng  huyết  thì  dùng  thục  địa,  đương  qui
          nhiều  hơn;  bạch  thược,  xuyên  khung  ít  hơn.  Khi
          không  dùng thục  địa,  dùng bạch  thược  ít  khi  phải
          tăng lượng qui lên.  Đó là phương pháp dùng bài Tứ
          vật  thang  bình  bổ  huyết  hư.  Nhưng  nói  chung
          trong  phương  bổ  huyết,  thường  dùng  qui,  thược
          làm chủ, kết hợp với thủ ô, a giao,  đồng sa uyển...
              Trên  cơ  sở bài  Tứ  vật  gia  mẫu  lệ,  cúc  hoa,  câu
          đằng,  thiên  ma  đê  thanh  trấn,  gọi  là  dưỡng  huyết

         22
   16   17   18   19   20   21   22   23   24   25   26