Page 18 - Chăm Sóc Sức Khoẻ Bằng Y Học Cổ Truyền
P. 18

1.  Phép thăng để trung khí
       Triệu  chứng:  Ngại  hoạt  động  do  khí  thiểu,  ỉa
   chảy lâu ngày, bệnh băng lậu, bạch đớí kéo dài.
       Thuốc  thường  dùng:  Hoàng  kỳ,  Đảng  sâm,
   Bạch truật,  Chích thảo, Thăng ma, Sài hồ, Trần bì.
   Đây là  phép bô trung ích  khí.  Bài bô trung ích  khí
   không phải  dùng  để thăng đề.  Lý Đông Viên trong
   “Nội  ngoại  thương biện  hoặc  luận”  đã  nói  chủ  yếu
   là  trị  ẩm  thực  lao  quyện.  Vì  ăn  uống  không  điều
   độ,  nóng lạnh  không phù hợp,  tỳ vị  bị tổn  thương,
   lại thêm mừng, giận, lo sỢ, làm việc quá độ làm tổn
   hao  nguyên  khí.  Vì  vậy  phải  lấy  bô  trung  và  ích
   khí  làm  chủ.  Trong  bài  bô  trung  ích  khí  ý  nghĩa
   của  Thăng  ma,  Sài  hồ là  2  vị có vị  đắng,  tính bình
   vị  đạm,  là  vị  âm  nằm  trong  dương  không  có  thể
   dẫn  Hoàng  kỳ,  Cam  thảo  ngọt  ấm  đưa  khí  đi  lên,
   bổ về  khí,  tán  giải  thực  biểu.  Vì  vậy,  muốn  thăng
   đê  trung  khí  tất  nhiên  phải  lấy  tỳ  vị  làm  cơ  sở,
   dùng  Bô  trung  ích  khí thang  mà  gia  trong  Thăng
   ma sẽ đạt được mục đích thăng đề. Nếu như chỉ nói
   rằng  vị  Thăng  ma,  vị  Sài  hồ  có tác  dụng thăng  đề
   sẽ không đầy đủ ý nghĩa.
       Hầu hết các vị thuốc có tính thăng thường kèm
   vói  tính  tán.  Vì  vậy  mà  có  phép  “thăng  tán”  như
   bài Thăng ma,  Cát căn thanh (Thăng ma,  Cát căn,
   Thược  dược,  Cam  thảo)  Thăng tán  dương  minh,  vì
   bệnh  đang  ở  biểu,  phải  tán  ngoại  tà.  Trị  thương
   hàn trúng phong phát nhiệt,  miệng khát,  đau đầu,

                                                         19
   13   14   15   16   17   18   19   20   21   22   23