Page 15 - Chăm Sóc Sức Khoẻ Bằng Y Học Cổ Truyền
P. 15

Tử  tô,  Phục  linh,  Khương  táo),  hoặc  bài  Tứ  thất
         thang  (Nhục  quế,  Nhân  sâm,  Bán  hạ,  Cam  thảo,
         Sinh  khương).  Mục  đích  đê  giáng  khí,  không  phải
         là trị đàm suyễn;  Giá như đàm ủng trướng đầy,  hô
         hấp,  suyễn úc,  không nằm  được  đó là do  đàm,  đàm
         không tiêu tất khí không giáng thường  dùng Tử tô
         giáng khí thang (Tử tô, Tiên hồ, Bán hạ,  Hậu phác,
         Quất hồng, Trầm hương, Đương qui, Cam thảo) gia
         giảm gọi là “giáng khí hóa đàm pháp”.
             Giáng  khí  khoan  trung  đê  cho  khí  đi  xuống  là
         thuận.  Nếu  như  thận  hư  không  thê  cố nhiếp  làm
         cho  khí  đưa  lên  gây  khó  thở,  ra  mồ  hôi  một  nửa
         đầu,  đi  tiểu  nhiều  lần,  mạch  trầm  sác  vô  lực.
         Thường  dùng  thất  vị  đô  khí  hoàn  (Thục  địa,  Sơn
         thù,  Sơn  dược,  Đơn bì,  Phục linh,  Trạch  tả,  Ngũ vị
         tử).  Nhân  sâm  cáp  giới  tán  (Nhân  sâm,  Cáp  giới)
         Tu bổ thu liễm hạ nguyên gọi là phép “Nạp khí”.

         2.  Phép giáng khí chỉ ách

             Triệu  chứng:  Vị  khí  thượng  nghịch,  chứng  hay
         nấc.
             Thuốc  thường  dùng:  Đinh  hương,  Thị  đề,  Sinh
         khương, Trần bì,  Hậu phác.  Nấc liên hồi thường do
         vị  hàn  gây  nên,  nên  dùng  Đinh  hương  thi  đê
         thang.  Đinh  hương  ôn  vị  Thị  đề  đắng  giáng  khí.
         Chứng nấc  dễ  gây  tổn  thương  trung  khí,  bệnh  lâu
         ngày  hoặc  người  già  bị  bệnh  này  cần  phải  giữ  gìn
         vệ  khí,  Gia  nhân  sâm,  Sinh  khương.  Đàm  thấp

        16
   10   11   12   13   14   15   16   17   18   19   20