Page 40 - Các Đại Công Thần Trong Lich Sử Việt Nam
P. 40

Các dại công thần trong lịch sứ Việt Nam 41


        nhưng ông không hể tỏ ra băn khoăn, thắc mắc, bất mãn. Trái
        lại,  với  tư tưởng:  “Dốc  một  lòng  lấy  việc yên  xã  tắc  làm  vui”
        ông hăng say bước vào tìm hiểu tinh hình cụ thể ở địa phưoug
        và  tiến  hành  mọi  chủ  trưoug,  biện  pháp  xây  dựng  cho  địa
        phưoTig được phát triển làm cho nhân dân được yên vui.
            Về  chính  trị, trước  hết  ông  lo  củng  cố  bộ  máy  cai  trị,  tìm
        những nguừi có đức, có tài, có uy tín với nhân dân để cai trị nhân
        dân. Ông đặc biệt tỏ thái độ khoan hoà giúp đỡ nhân dân, hết sức
        tránh làm phiền dân. Chi khi thật cần thiết cho việc chung, có lợi
        cho dân, ông mới huy động dân và lúc đó thì ông ôn tồn chỉ bảo,
        động viên  nhân  dân làm hết sức mình vì  lợi ích chung. Nhờ đó
        ông đoàn kết được các tầng lóp nhân dân. Đối với các dân tộc it
        người ở miền núi, ông hết sức quan tâm giúp đỡ mọi mặt, kịp thời
        giải quyết những mâu thuẫn dân tộc cho nên suốt thòi gian ông
        làm Tổng  trấn  Thanh  Hoá,  không  một lần  nào  xẩy  ra  nổi  loạn,
        khác hẳn với thời gian  trước đây, cứ dăm ba năm lại có một vụ
        nổi loạn ở noi này hoặc noi khác. Không những trấn Thanh Hoá
        yên tĩnh mà cả châu Hoan, và ba châu Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý
        cũng  đều  yên  tĩnh.  Người  đòi  khen  rằng,  ông  cai  trị  giỏi  nên
        không cần đánh dẹp.
            Về kinh  tế, với  quan  điểm  “dân  lấy  no  ấm  làm  đầu,  nước
         lấy nghề nông làm gốc”, ông ra sức khuyến khích nghề nông,
         tạo  mọi  điều  kiện  để  nhân  dân  chăm  sóc  ruộng  đồng,  không
         để xẩy  ra  tình  trạng  lỡ thời  vụ.  Bên  cạnh  nghề  nông  là  gốc,
         ông  cũng  hết  sức  khuyến  khích  nghề  trồng  dâu,  nuôi  tằm,
         ưom  tơ,  dệt  lụa,  dệt  vải,  đồng  thời  cũng  rất  chú  ý  khuyến
         khích  nghề  đánh  cá,  làm  muối  để  cung  cấp  cho  vùng  đồng
         bằng và để trao đổi với miền núi. ông còn chú ý khuyến khích
         nghề làm rừng, đốn gỗ, săn tê tượng để đổi cho miền xuôi lấy
         gạo,  muối  phục  vụ  dân  sinh,  ông  lại  khuyến  khích  cả  nghề
         thủ công mỹ nghệ như khi đến núi  An  Hoạch, tức là núi Nhồi
   35   36   37   38   39   40   41   42   43   44   45