Page 201 - Trang Phục Việt Nam
P. 201
[67]
là chiếc áo dài sa tanh hồng, bên trong áo dài lụa trắng Cổ Đô . Mặc
quần lĩnh hay sa tanh đen. Chân đi văn hài thêu hạt cườm hoặc đôi guốc
cong. Vấn khăn nhung đen, đeo hoa tai bèo, cổ đeo nhiều vòng chuỗi hột
bằng vàng.
Chú rể mặc áo dài the thâm, hoặc sa tanh, hoặc gấm hoa… bên trong
mặc áo dài trắng. Quần trắng ống sớ, đi giày Gia Định hoặc giày da đen.
Đội khăn xếp. Khi lễ tơ hồng, lễ nhà thờ thì khoác áo thụng lam.
Đến giai đoạn sau, các cô dâu con nhà giàu mặc áo thụng bằng gấm
màu đỏ hoặc vàng… có họa tiết rồng phượng, cánh tay áo dài và rộng.
Mặc quần trắng, đi giày vân hài nhung màu đỏ hoặc vàng hay lam, có thêu
rồng, phượng bằng hạt cườm hay chỉ kim tuyến lóng lánh. Đầu đội khăn
vành dây bằng nhiễu, màu lam hay vàng quấn nhiều vòng quanh đầu. Cách
đội khăn như trên thường được gọi là kiểu “hoàng hậu”, từ miền Trung phổ
biến ra miền Bắc.
Có cô dâu mặc áo dài bằng vải mình khô hoa ướt hoặc gấm hoa, sa
tanh, hay nhung đỏ…, mặc quần lụa trắng. Vấn khăn vành dây, cổ đeo
kiềng hay dây chuyền. Tay đeo xuyến, vòng.
Ở thành thị về sau còn tiếp thu một số hình thức trang điểm của châu Âu:
cô dâu trang điểm son phấn, cài thêm bông hoa hồng trắng bằng voan ở
ngực trái, tay ôm bó hoa lay ơn trắng, tượng trưng cho sự trong trắng,
đồng thời làm đẹp cho bộ trang phục ngày cưới. Mặt khác cũng để đôi tay
đỡ ngượng nghịu. Chú rể mặc com lê, thắt cravát hay cài nơ ở cổ, đi giày
da.
Ở ngoại thành, cô dâu mặc theo lối cổ truyền áo dài cài cúc, quần lĩnh
đen. Chú rể áo the, quần trắng, đội khăn xếp.
Trong kháng chiến chống Pháp, ở vùng tự do, đám cưới được tổ chức
giản dị theo đời sống mới, phù hợp với hoàn cảnh từng nơi. Trang phục lễ
cưới cũng vì vậy mà không có gì khác biệt trang phục ngày thường, chỉ là
quần áo mới may.
Từ năm 1954, nhiều nghi thức, trang phục lễ cưới phức tạp được lược
bỏ, xuất phát từ trình độ giác ngộ của người dân miền Bắc mới được giải
phóng, cũng như điều kiện đất nước còn tạm thời bị chia cắt.