Page 41 - Thuốc Chữa Bệnh Lao
P. 41
vào mật (85%) sau đó vào ruột non. Một sô" ít Rifampicin
không chuyển hoá cũng vào mật (15%). Vào ruột desacetyl
rifampicin đào thải ra ngoài theo phân , nhưng một tỷ lệ
lại hấp thu về gan (chu kỳ ruột gan). Một lượng nhỏ
Rifampicin và chất chuyển hoá của nó bài tiết qua nước
tiểu dưới dạng hoạt động. Do đó uống Rifampicin phân và
nưốc tiểu thường có màu đỏ của thuốc, dấu hiệu này giúp
phân biệt thuốc thật với thuốc giả. Desacetyl rifampicin
vào mật rất nhiều vào khoảng 300-450mg/ngày, trên 200
|ag/ml ở giò thứ 4 và 12 giò sau khi uống 600mg. Nếu
uổng thuổc liều lượng cao, thuốc qua gan vào máu nhiều
làm tăng nồng độ thuốíc trong máu sẽ có các biểu hiện lâm
sàng viêm gan. Nếu uống Rifampicin chia làm nhiều liều
nhỏ trong một ngày, nồng độ thuốc ở máu thấp hơn, như
vậy uống một lần duy nhất trong ngày vào buổi sáng lúc
đói trước khi ăn một giò là hợp lý hơn cả.
Sau khi qua gan vào máu Rifampicin lan toả rất tốt
vào nhu mô phổi, gan, thận và các mô khác, nhưng vào
xương đặc, dịch não tuỷ thấp trừ trường hợp bị viêm.
Thuốc cũng truyền qua rau thai, qua sữa mẹ (khoảng
2 ^Ig/ml), nước bọt (trung bình 0,5 ^xg/ml) sau khi uống
600mg. Nồng độ thuốc Rifampicin ỏ các tổn thương lao so
vối trong huyết thanh rất khác nhau:
- Tổn thương hạt cục lao nhu mô phổi = 1,6.
- Tổn thương bã đậu = 0,35.
- Hang lao = 1,3.
Thòi gian bán huỷ của Rifampicin vào khoảng 2 giò
sau khi uống 600mg và 3 giờ khi uống 900mg. Vì thuốic
4 2