Page 119 - Tác Động Của Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài
P. 119
Nhìn vào đồ thị chúng ta thấy, sô" vốh thực sự chảy từ
nưác ngoài vào Việt Nam theo thống kê của UNCTAD
luôn luôn thấp hơn, thậm chí có năm chỉ bằng trên 50% số
vốh thực hiện được báo cáo bởi Bộ Kê hoạch và Đầu tư và
chưa năm nào vượt quá con sô" 2,5 tỷ USD cho đến trước
năm 2006. Con sô" này chỉ tăng lên kể từ 2007 và đạt mức
cao nhất vào năm 2008 vối khoảng 9,5 tỷ USD. Điều này
dẫn đến sự chênh lệch rất lớn về tổng sô" vốn thực sự đầu
tư giữa sô" liệu của Bộ Kê" hoạch và Đầu tư và sô" liệu của
UNCTAD. Cụ thể, theo báo cáo FDI toàn cầu năm 2013
của UNCTAD thì vô"n FDI thực hiện tại Việt Nam đến
cuối nám 2012 là 72,5 tỷ USD. Trong khi đó, theo sô" liệu
của Bộ Kê hoạch và Đầu tư thì con sô" này là 99,4 tỷ USD,
tức là chênh lệch tới... 27 tỷ USD. Đây là sự chênh lệch rất
lớn khiến những quyết định quản lý FDI được đưa ra có
thể không sát với thực tiễn.
Ngoài những nhuyên nhân đã nêu ở trên, sự chênh
lệch này còn bắt nguồn từ ít nhất hai nguyên nhân khác
nữa, đó là: (i) Một phần tương đôi lớn FDI thực chất là
nguồn vôh trong nưốc đưỢc các nhà đầu tư vay tại thị
trường Việt Nam để thực hiện dự án. Nhà đầu tư nước
ngoài đã dùng tiền của Việt Nam đầu tư tại Việt Nam và
thu lợi nhuận mang về nưốc. Luật đầu tư của Việt Nam
quy định sô" vốh pháp định khoảng 30% vốn kinh doanh,
nghĩa là 70% còn lại, nhà đầu tư hoàn toàn có thể vay bất
kỳ đâu, kể cả vay của người dân Việt Nam. Điều này
không hoàn toàn xấu, do sô" vốh nhàn rỗi của Việt Nam có
thể vì thê" đã được sử dụng vào những nơi có hiệu quả
118