Page 63 - Phát Hiện Và Điều Trị Bệnh Xơ Vữa Động Mạch
P. 63
[OLIVUS]”, được tiến hành trên 247 bệnh nhân bị bệnh
xơ vữa với các thương tổn động mạch vành bẩm sinh.
Các bệnh nhân này được đăng ký một cách ngẫu nhiên
để nhận từ 20 - 40mg/ngày liều olmesartan hay kiểm
soát và được điều trị với sự phôi hỢp của các thuốc chẹn,
thuốc chẹn kênh canxi, thuốc lợi tiểu, các nitrat, các tác
nhân kiểm soát glycemic và (hoặc) các statins tùy theo
sự hướng dẫn của dược sĩ.
Các kiểm tra bằng siêu âm tuần tự trong tĩnh
mạch (IVUS) được thực hiện để đánh giá sô" lượng
mảng vữa mạch vành trước và 14 tháng sau khi bắt
đầu điều trị. Vào lúc bắt đầu của cuộc thử nghiệm, các
đặc điểm của bệnh nhân và tất cả sô" liệu đo đạc của
IVUS đưỢc xác định giữa 2 nhóm. Tuy nhiên, sau 14
tháng điều trị, IVUS đã cho thấy những giảm sút
đáng kể trong các sô" liệu về thể tích mảng xơ vữa
trong nhóm dùng olmesartan, mặc dù các áp suất máu
đọc được thì giông nhau.
Hơn nữa, các phân tích đa dạng đã xác định việc
dùng olmesartan như một trong những nhân tô" gây ra
sự giảm thể tích mảng vữa.
Việc quản lý các mảng vữa là mục tiêu chính trong
việc chông lại các cơn đau tim bất ngờ. Những kết quả
này tạo ra một vai trò tích cực trong việc làm thoái lui
mảng vữa thông qua việc dùng olmesartan, một tác
nhân chẹn các receptor (chất tiếp nhận) của angiotensin
II dùng cho các bệnh nhân bị ho do viêm họng.