Page 95 - Nghề Thủ Công Truyền Thống Việt Nam
P. 95
am thờ thì Nguyễn Kim Lâu người thôn Thượng Gia xã
Đường Thậm, ông học được nghề vá nồi đồng (bổ khuyết
đồng oa) ở châu Bảo Lạc, Cao Bằng, đời Minh (1414 -
1427) rồi về dạy cho dân làng. Một thời gian sau ông lập
ra phường thợ đặt tên là Phúc thọ phường. Cũng trên tấm
bia: Cổ tích danh lam Kim Tiên tự tu tạo thạch bi ký (bài ký
trên bia đá về việc tu tạo chùa cổ Kim Tiên) khắc ngày 1
tháng 9 năm Tân dậu niên hiệu Chính Hòa 2 (1681) đời Lê
Hy Tông, phường thợ Phúc Thọ lúc đó có 149 người gồm
1 trùm phường và 7 chi phường cai quản 7 hạng thợ. Hạng
nhất cổ 18 người, hạng nhì 24 người, hạng ba 21 người,
hạng tư 32 người, hạng năm 12 người, hạng sáu 21 người,
hạng 7 13 người, của các dòng họ Nguyễn, Triệu, Trần,
Đình, Vũ, Hoàng, Ngô, Đỗ... Theo quy định của phường,
người nào muốn học nghề phải nộp 3 quan tiền để làm lễ
cầu phúc và lễ kính tổ nghề. Hàng năm vào ngày mùng 5
tháng giêng âm lịch, phường thợ phải tập trung trước am
thờ để nhìn lại công việc trong một năm và làm lễ giỗ tổ.
Từ chỗ được đức tổ Nguyễn Kim Lâu truyền dạy cho nghề
vá nồi đồng, thợ Đồng Sâm đã khồng ngừng cải tiến để làm
những mặt hàng tinh xảo bàng bạc như các loại đồ trang
sức, thờ cúng và đồ mỹ nghệ. Với nghề tổ, thợ Đồng Sâm
thường chia thành từng tốp nhỏ từ 1 đến 3 người gánh theo
đồ nghề (bễ thổi lửa, đe, búa, ve, chạm...) hành nghề lưu
động khắp các vùng. Vào khoảng thế kỷ 17 sự phát triển
của đô thị đã thu hút khá nhiều thợ Đồng Sâm. Họ lên
Thăng Long cùng với thợ Châu Khê (Hải Dương) Định
99