Page 156 - Làng Khoa Bảng
P. 156
đi đốc chiến ở Cao Bằng, tử trận, được phong tặng Lễ
khoa Đô câp sự trung.
5, Ngô Vi Nho, Tiến sĩ khoa Giáp Tuất (1694), đời
Lê Hy Tông, làm quan Giám sát Ngự sử.
6, Ngô Đình Thạc, đỗ khoa Canh Thìn (1700), đời
Lê Hy Tông, từng giữ nhiều trọng trách: Phó sứ sang
nhà Thanh, rồi Thượng thư Bộ Binh, N hập thị kmh
diên, tước Quận công; Tham tụng kiêm Thượng thư
Bộ Hộ...
7, Ngô Đình ChâT, em Ngô Đình Thạc, Tiến sĩ
khoa Tân Sửu (1721), đời Lê Dụ Tông, ô n g làm quan,
trải nhiều bước thăng trầm, rồi cũng làm tới Thượng
thư Bộ Bũứi.
8, Nguyễn Tông Trình, hiệu Song Ngạc, nổi tiếng
văn hay và đức độ, đỗ khoa Giáp TuâT (1754), đời Lê
Hiển Tông, làm quan đến Đông các Hiệu thư, Phó Đô"c
thị Nghệ An.
9, Ngô Thì Sĩ (1725-1780), tự Thế Lộc, hiệu Ngọ
Phong. Sau khi đỗ Hương tiến, ông đỗ đầu khoa chọn
người giỏi, được chọn làm tuỳ giảng cho Thế tử Trịnh
Sâm. M ãi đến khoa Bính Tuất (1766), đời Lê Hiển
Tông, ông mới đỗ Hoàng giáp, rồi làm quan trải nhiều
chức trọng.
10, Ngô Thì Nhậm, con trai trưởng của Ngô Thì
Sĩ, hiệu Đạt Hiên, đỗ khoa Ất Mùi (1755), đời Lê Hiển
Tông. Sau này, ông làm quan cho nhà Tây Sơn đến
chức Thượng thư Bộ Binh, tước Phương Quận công.
11, Nguyễn Nha, hiệu Tả Khê, đỗ Tiến sĩ khoa Ất
155