Page 59 - Giới Thiếu Thị Trường Thổ Nhĩ Kỳ
P. 59
1.2.6. Áp dụng thuế suất đối với sản phẩm nông sản
nhập khẩu
Trong khuôn khổ Hiệp định WTO về nông nghiệp, Thổ
Nhĩ Kỳ đã đưa thuế suất nông nghiệp về khuôn khổ ưu đãi từ
năm 1995. Đồng thời đã cắt giảm tối thiểu 10% đối với từng sản
phẩm và bình quân 24% đối với tất cả các sản phẩm nông
nghiệp trong giai đoạn 1995 và 2004. Thuế suất nhập khẩu bình
quân đối với nông sản hiện nay là 58,9%.
Chính sách nông nghiệp của nước này được xác định
trong 4 văn bản chính: Chiến lược nông nghiệp 2006 – 2010,
Luật Nông nghiệp (Luật số 5488) năm 2006, Kế hoạch chiến
lược (2010 – 2014) và Kế hoạch phát triển Thổ Nhĩ Kỳ lần thứ
9. Khuôn khổ chính sách này nhằm làm cho chính sách nông
nghiệp của Thổ Nhĩ Kỳ đồng nhất với Chính sách nông nghiệp
chung (CAP) của EU. Mục tiêu của khuôn khổ chính sách này
cũng nhằm bảo đảm an ninh và an toàn lương thực, tăng cường
khả năng tự đáp ứng các mặt hàng đang phải nhập khẩu, cải
thiện năng suất và năng lực cạnh tranh, đảm bảo thu nhập nông
nghiệp bền vững, phát triển nông thôn và tăng năng lực của các
tổ chức quản lý trong lĩnh vực nông nghiệp.
Nông nghiệp là một trong những ngành sản xuất chính
của Thổ Nhĩ Kỳ với 25% lực lượng lao động trong nước vào
năm 2010. Tuy nhiên, so với các lĩnh vực khác, thu nhập của
người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn thấp. Do đó, các
kết quả về đàm phán nông nghiệp của WTO là rất quan trọng
đối với nước này, không những về phương diện kinh tế mà cả về
phương diện xã hội.
Do thuế suất là công cụ quan trọng để bảo vệ sản xuất
nông nghiệp tại Thổ Nhĩ Kỳ cũng như tại các nước đang phát
triển khác, quá trình tự do hóa dần dần và một số công cụ bổ
51