Page 40 - Đinh Tiên Hoàng
P. 40

và chia quân ra năm người làm một ngũ, có ngũ trưởng chỉ
    huy, năm ngũ làm một ban, có ban trưởng đứng đầu! Mười
    ban họp lại làm một đội, có đội trưởng chỉ huy.
        Đội quân của ông có sự phân nhiệm rõ ràng, gồm quân
    chiến  và  quân  thợ.  Quân thợ có nhiệm vụ  đóng thuyền,
    rèn  vũ khí.  Quân chiến  gồm quân  thủy và  quân bộ.  Mỗi
    đội  quân  bộ  lại  có  một  tốp  quân  kỵ  khoảng  năm  mưoi
    chiến binh, khi xung trận, thường lao lên trước, giao chiến,
    mở đường.  Khi đánh  đường núi  thì họp các  tốp kỵ binh
    thành một đội, giao cho một đội trưởng làm thủ lĩnh.
        Thời kỳ này, Đinh  Bộ Lĩnh giữ Bố Hải Khẩu - Kỳ Bố
    (Thái Bình). Trong khi đó, ở các noi, các viên chỉ huy sứ cũng
    ra sức ganh đua, đem quân đánh lẫn nhau. Ngô Xương Xí, con
    Ngô Xương Ngập khi cha mất, biết thế không thể trụ ở kinh
    đô, đã đem quân về giữ Bình Kiều (Triệu Sơn - Thanh Hóa).
    Đỗ Cảnh Thạc, viên quan trước phò Ngô Xương Văn, sau
    khi Ngô Xương Văn đón anh là Ngô Xương Ngập về triều,
    đã  ròi  bỏ  triều  đình,  tự  xưng  là  Đỗ  Cảnh  Công,  giữ  Đỗ
    Động Giang (Thanh  Oai, Hà  Nội).  Ngoài ra, còn có Kiều
    Công Hãn tự xưng Kiều Tam Chế, giữ Phong Châu - Bạch
    Hạc (Việt Trì và Lâm Thao, Phú Thọ), Nguyễm Khoan  tự
    xưng Nguyễn Thái Bình, giữ Tam Đái (Vĩnh Tường, Vĩnh
    Phúc), Ngô Nhật Khánh, dòng dõi Ngô Vương, tự xưng là
    Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội), Lý Khuê
    tự xưng là Lý Lãng, giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh),
    Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công, giữ Tiên Du
    (Bắc Ninh), Lã Đường tự xưng là Lã Tá Công, giữ Tế Giang
    (Văn Giang, Hưng Yên), Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu
    Công, giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội), Kiều Thuận tự
    xưng là Kiều Lệnh Công, giữ Hồi Hồ - cẩm Khê (Phú Thọ)


                                                           41
   35   36   37   38   39   40   41   42   43   44   45