Page 26 - Di Tích Lịch Sử
P. 26
Đền ban đầu do Nùng Tông Phúc dựng lên vào thời nhà Lý (thế kỉ XI), trên một
gò đất cao phía bắc thành Nà Lữ, gọi là gò Long (tức gò Rồng). Theo Địa chí Cao Bằng
năm 2000 có ghi; “Đến thế kỉ XI, đời vua Lý Thái Tông, niên hiệu Thông Thụy thứ 6
(1039) - thực tế niên hiệu Thông Thụy chỉ chỉ có 5 năm, năm 1039 là niên hiệu Càn
Phù - thủ lĩnh châu Quảng Nguyên hay châu Thảng do Nùng Tổn Phúc tự xưng là
Chiêu Thánh Hoàng đế, đổi tên châu Quảng Nguyên thành nước Trường Sinh. Tồn
Phúc đã cho quân xây tiếp thành Nà Lữ và lập thêm cung điện có thành bằng đất bao
quanh”, đó chính là đền vua Lê hiện nay”. Vào năm 1431, vua Lê Thái Tổ nghe lời sàm
tấu, nghi Bế Khắc Thiệu (người đã tham gia khởi nghĩa Lam Sơn) có ý chống đối triều
đình, đích thân nhà vua đem quân lên đàn áp, Bế Khắc Thiệu bỏ trốn, vê' sau ốm chết.
Năm 1682, quan trấn thủ Cao Bằng là Lê Văn Hải đã tâu xin vua Lê cho sửa chữa thành
cổ (tức thành Nà Lữ cũ) làm đển thờ vua Lê Thái Tổ, đó chính là đển vua Lê hiện nay.
Dưới triểu đại phong kiến, đển vừa là cung điện, vừa là trung tâm hoạt động kinh tế -
văn hoá, quân sự của các vua quan. Trước Cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ, đển vua Lê cũng là một di tích lịch sử gắn liền với những hoạt
động của Đảng ta trong thời kì vận động cách mạng dân tộc, dân chủ. Tại đây đổng
chí Hoàng Đình Giong đã đứng ra thành lập “Đoàn Thanh niên Phản đế’ (năm 1936).
Năm 1944, đền vua Lê là nơi diễn ra Hội nghị liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng; trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước đền là nơi sơ tán của Nhà máy Giấy Cao Bằng.
Hiện nay, đển Vua Lê được xem là một di tích có giá trị đặc biệt vê' mặt kiến trúc
nghệ thuật và là nơi tập trung lễ hội, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ của nhân dân nơi
đây. Hằng năm, nhân dân trong vùng vẫn tổ chức lễ hội vào ngày 6 tháng Giêng âm
lịch; trùng với ngày chính hội Cổ Loa ở Hà Nội, cùng tưởng niệm vong linh Thục Phán
An Dương Vương. Dịp lễ hội có tác dụng làm sống lại quá khứ truyền thống thượng
võ của dân tộc như thi bắn cung, nỏ, đấu vật, thi võ ngày xuân. Hơn nữa, địa phương
còn có thể thực hiện du lịch làng nghể hàng năm nhằm quảng bá, kí kết hỢp đồng
buôn bán hàng thủ công mĩ nghệ và các loại sản phẩm nông, lâm nghiệp sẵn có trong
tỉnh và rộng hơn là thu hút cả miền đông bắc Việt Nam và các huyện Quảng Tây, Vân
Nam của Trung Quốc. Sự kết hợp tổ chức khôn khéo giữa hoạt động du lịch văn hoá
với buôn bán giao lưu sản phẩm hàng hoá là một hướng thúc đẩy sự phát triển hài hoà
giữa kinh tế và văn hoá.
Một số &í tícli lỊcli svr - VẰM Vioá việt NAm
c 27 >