Page 25 - Di Tích Lịch Sử
P. 25
Liên quan đến thành Nà Lữ là những sự kiện quan trọng trong lịch sử dựng nước
và bảo vệ sự thống nhất quốc gia của các triểu đại phong kiến Việt Nam xưa. Năm
1038, Nông Tổn Phúc cát cứ vùng Cao Bằng, xưng đế hiệu, đặt tên nước là Trường
Sinh. Năm sau, vua Lý Thái Tông thần chinh dẹp yên, nhưng đến năm 1041, con Nông
Tổn Phúc là Nông Trí Cao lại dấy binh, đặt tên nước là Đại Lịch. Vua Lý Thái Tông sai
tướng lên đánh bắt được đem vể Thăng Long, rồi dùng chính sách chiêu an tha cho
vể phong làm Quảng Nguyên mục, sau gia phong tước Thái Bảo. Năm 1048, Nông Trí
Cao xưng là Nhân Huệ Hoàng đế, đặt quốc hiệu Đại Nam, đem quần sang đánh nước
Tàu, chiếm 8 châu ở Quảng Đông, Quảng Tây. Nhà Tống phải cử tướng Địch Thanh
thảo phạt. Bị thất bại, Nông Trí Cao chạy trốn sang nước Đại Lý và bị bắt giết.
Khi nhà Mạc chạy lên Cao Bằng (1594 - 1677), trong 83 năm, ba đời vua Mạc
đóng đô ở Cao Bình đã cho tu sửa, xây thành cao lên, có cổng thành kiên cố để phòng
thủ, để phòng triều đình vua Lê - chúa Trịnh lên thôn tính. Vì thế, bên cạnh thành
Phục Hoà, thành Nà Lữ cũng trở thành một cứ điểm quan trọng của nhà Mạc ở Cao
Bằng, góp phần không nhỏ vào việc duy trì sự tổn tại của dòng họ này trong một thời
gian dài sau khi phải chạy khỏi kinh đô Thăng Long.
Thành trước đây được làm bằng đất, đến thời Mạc chạy lên thì được sửa chữa, tu
bổ thêm bằng đá. Thành được xây theo hình tứ trụ, tổng diện tích 21.060m^. Vật liệu
là gạch vổ, chân thành được kê bởi các tảng đá to và phẳng, cổng thành làm bằng loại
gỗ nghiến to, dày, rất kiên cố. Thành có 4 cửa: cửa đông thông ra sông Mãng, cửa tây
thông ra cánh đồng Nà Thính, cửa nam thông ra cánh đồng Nà Lữ, phía bắc giáp với
Khau Phước, thông ra hệ thống chiến lũy núi Khắc Thiệu. Sau khi quân Lê - Trịnh
đuổi quân Mạc chạy sang Trung Quốc, Cao Bằng trở thành một trấn của nhà Lê. Trấn
thủ thành Nà Lữ là Lê Văn Hải đã sửa chữa thành và xây đền vua Lê Thái Tổ tại đây.
Bên trong thành đắp 4 gò đất nổi lên được đặt tên là: Long, Ly, Quy, Phượng. Gò
Long được đặt làm gò chính, dân địa phương gọi là Gò Rồng, cung điện xây đặt ở gò
này. Còn các gò khác là nơi các đại thần quân cơ đóng, ở giữa thành có ao sen, các
thửa ruộng hình bàn cờ. Nhìn quang cảnh vùng Nà Lữ từ ngọn núi Bế Khắc Thiệu
xuống trông như một họa đổ rất đẹp có thế của hình chữ vương vững chãi.
Tuy nhiên, đó là hình ảnh ngôi thành trải qua các triều đại trong sử sách ghi lại,
còn thực tế thì thành Nà Lữ đã không giữ được những hình bóng của nó bởi sự bào
mòn của thời gian cùng với những hậu quả của chiến tranh để lại. Trải qua nhiều giai
đoạn lịch sử nên cơ bản thành đã bị phá huỷ không còn xác định được mặt cắt của
thành cũ, bốn cổng đã bị lấp đất toàn bộ chỉ còn lại một đoạn thành đất ở phía đông.
Và trên nền thành cổ còn sót lại cái góc cuối cùng của ngôi đền thờ vua Lê cùng vết
tích nển thành, lò vôi, vườn đạn đá, gạch vổ, nển cung điện xưa.
Ngày nay, dấu tích của thành Nà Lữ không còn nhiều nhưng trong thành vẫn còn
một di tích lịch sử là đền vua Lê thờ vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi Cao Hoàng đế). Đền được
xây dựng trên một gò đất cao phía bắc thành Nà Lữ, tức là ở phía tầy bắc, cách trung tâm
thị xã Cao Bằng 1 Ikm, thuộc làng Đển, xã Hoàng Tung, huyện Hoà An. Đến được công
nhận là Di tích Lịch sử Quốc gia năm 1995 theo Quyết định số 1568QĐ/VH.
Một *ố t>i tícti lịcti sử - VÂM Vioá Việt
c 26 >