Page 21 - Dạt Dào Sông Nước
P. 21

là  sông Cái.  Cái  trong tiếng Việt cổ có  nghĩa  là  Mẹ.  Sông
         Cái  cũng  được  nhắc  tới  khi  Lí  Thái  Tổ  dời  đô từ  Hoa  Lư,
          Ninh  Bình  ra Thăng Long.

              Xưa  kia,  người  ta  ít  có  điều  kiện  đi  suốt  cả  một  dòng
          sông, nên thường lấy tên địa phương dòng sông chảy qua để
         gọi tên sông. Phía thượng nguồn, con sông này có tên là sông

         Thao, sông Bạch  Hạc, sông Phú Lương... Một cái tên thường
          được nhắc đến  là Nhị  Hà:  núi  Nùng sông Nhị. Thực ra, tên
         gọi  này vốn  là  Nhĩ  Hà,  dựa  vào  hình  dáng sông uốn  cong
          như vành tai. Đoạn gần Hà Nội, sông còn có những tên như
          sông Đại  Lan (chảy qua bãi  Đại Lan, huyện Thanh Trì), sông
          Xích Đằng, Thiên Mạc, Mạn Trù (chảy qua tỉnh Hưng Yên).
          Qua đất Hà  Nam sông có tên  là sông Nam  Sang,  chảy vào

          địa phận  Nam  Định  lại  mang tên  Hoàng Giang...
              Điều thú vị  là,  sông  Hồng  lại  là tên  gọi  mới  mẻ  nhất,

          xuất phát từ... tiếng Pháp.  Nguyên do,  khi  lập bản đồ nước
          ta, người Pháp thấy dòng sông có màu phíj sa đỏ quạch nên
          gọi  là Fleuve Rouge. Từ này được sử dụng và dịch sang các
         thứ ngôn  ngữ khác  trên  tất  cả  các  bản  đồ thế giới.  "Dịch
          ngược"  lại sang tiếng Việt, thành Sông Hồng hay Hồng Hà!


              BA SÔNG TỤ  LẠI...

              Sông  Hồng  dài  tổng  cộng  1.149  km,  phần  chảy  trên
          lãnh thổ nước ta là 510 km, bắt nguồn từ dãy núi  Nguy Sơn
          cao  1.776  m, thuộc dây Ai  Lao Sơn, tỉnh  Vân  Nam,  Trung

          Quốc.  Lúc  này  sông  có  tên  là  Nguyên  Giang,  chảy  qua

                                      20
   16   17   18   19   20   21   22   23   24   25   26