Page 45 - Chăm Sóc Sức Khoẻ Bằng Y Học Cổ Truyền
P. 45
Thuốc thường dùng: tang diệp, thuyền y, bốì
mẫu, đảm tinh, quất bì, tỳ bà diệp, qua lâu bì.
Những vị thuốc thanh hoá đàm nhiệt vừa có tính
chất nguyên tán, bơi vĩ với chứng đàm nhiệt phần
nhiều do phong ôn, phong nhiệt gây nên. Phép điều
trị ban đầu không tách rời phạm vi thanh tuyến
phế, nếu có sốt cao ho nhiều, đau tức ngực phải kết
hợp với tả bạch tán (tang bì, địa cốt bì, cam thảo,
ngạch mễ) gia hoàng cầm, tri mẫu và thạch cao đê
thanh phế, tả phế. Tất nhiên khi chỉ có đàm nhiệt
tại phế thì chỉ nên thanh phê hoá đàm, dùng bách
hợp, hải cáp sắc, mã đâu linh, thiên trúc hoàng,
trúc diệp cũng có thể thu được kết quả.
Ta cũng nên hiểu về phép trị táo đàm: lục khí
đều có thể gây táo thuộc ngoại tà, thường gặp ỏ thòi
kỳ hạ mạt thu sơ gọi là thu táo, mặt khác nói chung
nhiệt chứng thường làm hao tổn tân dịch, cũng có
thể xuất hiện, hiện tượng khô táo, cho nên nói táo là
phần dư thừa của hoả. Người xưa căn cứ vào đó mà
có phép điều trị khác nhau, vì thê táo với hoả có
tính chất giống nhau nên khi điều trị táo đàm
cũng có thể căn cứ tình trạng cụ thể mà gia giảm.
3. Phép hoá đàm táo thấp:
Triệu chứng: Khái khấu, chứng đàm trọc.
Thuốc thường dùng: Chê thương truật, hậu
phác, bán hạ, Trần bì, Phục linh, dĩ nhân.
Táo thấp dùng bình vị tán, hoá đàm dùng nhị
46