Page 142 - Các Giống Ngô Mới Kỹ Thuật Trồng
P. 142

bón phân đạm, mật độ gieo trồng đều có ảnh hưởng tới mức
       nhiễm bệnh khô vằn.

          Thời  vụ  gieo  muộn,  tưới  nhiều,  bón  đạm  cao  12kg
       urê/sào Bắc Bộ) mật độ gieo trồng dày (2.500 cây/sào Bắc
       Bộ) đều có thể nhiễm bệnh khô vằn ở mức cao hơn thời vụ
       gieo sớm, không tưới, bón đạm ít hơn (lOkg/sào) và mật độ
       trồng thấp hơn (1.700 cây/sào).

       c.  Phòng trừ
          Các thí nghiệm phòng trừ bệnh khô  vằn ngô  trên đồng
       ruộng trong vụ xuân 2001 cho thấy các loại thuốc Validacin
       5 DD và Rovral 50 WWP sau phun 7 ngày có hiệu lực cao,
       đạt  86,52%  và  83,3%  tương  ứng.  Bón  chế phẩm  sinh học
       Trichoderma đạt hiệu quả  phòng trừ thấp hơn 72,7%.  Tuy
       nhiên  thời  gian  càng  về  sau,  sau  phun  thuốc  hóa  học  27
       ngày thì hiệu lực phòng trừ giảm dần chỉ đạt 27,24%. Do đó
       để phòng trừ bệnh khô vằn trong vụ xuân cần phun thuốc ít
       nhất 2 lần trở lên cho một vụ, đồng thời kết hợp với các biện
       pháp canh tác,  vệ  sinh tàn dư, làm đất ngâm nước để diệt
       trừ nguồn bệnh là hạch nấm ở trong đất.
       6.  BỆNH ĐỐM LÁ NGÔ
          Bệnh này là do hai loại nấm gây ra, đó là: Helminthosporìum
       maydis gây ra bệnh đốm lá nhỏ và H. turcicum gây ra bệnh đốm
       lá lớn. Hai loại nấm này gây hại khá phổ biến ở các vùng trồng
       ngô của nước ta, đặc biệt ở những ruộng không có sự đầu tư
       thâm canh, ruộng đất xấu, đất trũng hay bị úng nước, ruộng có
       kết cấu thịt nặng, chặt, dễ đóng vàng, hoặc những ruộng thường


       140
   137   138   139   140   141   142   143   144   145   146   147