Page 141 - Các Giống Ngô Mới Kỹ Thuật Trồng
P. 141

khác nhau như thôi đen rễ, lở cổ rễ, thối gốc thân, khô vằn
       (đôm vằn),  thối lá.  Hại ở thời kỳ  cây con ở rễ,  cổ rễ  ủng
       nước  nâu  đen,  cây  đổ  rạp  gọi  là  bệnh lở  cổ  rễ  (cà  chua,
       thuốc lá vườn ươm, đậu đỗ...). Trên ngô, bệnh hại trên bẹ,
       phiến lá, thân và bắp ngô tạo ra nhiều vết lớn loang lổ, đốm
       vằn da hổ, hình dạng bất kỳ  như hình đám mây.  vết bệnh
       lan từ lá phía dưới gốc lên bắp, cờ, làm cây tàn lụi, bắp thối,
       gây tổn thất lớn trên các giông ngô mới.
          Nấm Rhizoctonia  có  nhiều chủng  thuộc  các nhóm  liên
       hợp AG (Anastomosis group). Những mẫu khô vằn ngô ở Hà
       Tây  (cũ)  đã  được  chúng  tôi  nghiên  cứu,  xác  định  chúng
       thuộc nhóm AGl-típ  1.  [(AG1-IA) theo hệ thông giám định
       của  Baruch  Sueh  và  CTV,  1998)],  chúng  có  dạng  hạch
       tương đối lớn 1,1 - 2,6mm, mầu nâu, không đồng đều, có tốc
       độ sinh trưởng nhanh = 30mm/ngày trên môi trường PDA, ở
       nhiệt độ cao 28 - 30°c. Các nguồn nấm trên ngô có thể lây
       bệnh chéo trên lúa và ngược lại, trong thí nghiệm lây bệnh
       nhân tạo (vụ  xuân 2001) tỷ  lệ  phát bệnh trên lúa,  ngô  rất
       cao (đạt 75 -  100%), thời kỳ tiềm dục ngắn 4 -5  ngày.
       b.  Thời kỳ phát triển bệnh
          Trên  đồng  ruộng,  nấm  gây  bệnh  khô  vằn  hại  ngô  vụ
       xuân thường phát sinh vào thời kỳ 6 - 7 lá sau đó phát triển
       mạnh tăng dần cho tới thời kỳ trỗ cờ, ra bắp thu hoạch, làm
       thối hỏng bắp ngô, tàn lụi lá, thân. Bệnh hại nặng trên các
       giống ngô mới như giông LVN  10, DK 888, Bioseed 9681.
       (Tỷ lệ bệnh cao 97 - 100%, chỉ sô bệnh 60 - 70% ở giai đoạn
       cuối vụ xuân). Các yếu tố như thời vụ, chế độ tưới, mức độ

                                                               139
   136   137   138   139   140   141   142   143   144   145   146