Page 18 - Các Đại Công Thần Trong Lich Sử Việt Nam
P. 18

Các đại công thẩn trang lịch sử Việt Nam 19

          CUỘC  tuần du có phò mã Đào Cam Mộc hầu giá, coi như chuyến
          khảo sát cuối cùng cho công cuộc dời đô.
             Thấy đất Vũ Bị thế đẹp, dân làng thuần hậu phò mã xin vua
          nhận đất để sau này đưa công chúa về ở. Tại đây, vợ chồng ông
          khuyên dân tưong thân cư xử, tương trợ cấy cày xây thuần phong
          mỹ tục. Công chúa An Quốc xuất tiền riêng mở mang ruộng đất,
          xin vua dựng bia thế nghiệp, đến nay phủ Vũ Bị còn giữ hai tấm
          đá cổ, các nhà chuyên môn gọi là Thạch Kiệt, hiểu chung là mốc
          ruộng  đất  “Sắc  cấp  tứ”  nhà  vua  cấp  cho  người  có  công.  Thạch
          Kiệt  được  dụng  vào  năm  Hồng  Thuận  thứ  5,  ngày  25-2  năm
          1513, ghi chép trên  140 mẫu ruộng ở các xứ trong vùng, xa nhất
          là đồng Ba, thuộc xã Đồn Xá, huyện Bình Lục. Các di tích thờ vợ
          chồng Đào  Cam  Mộc đều  có miếu  nguy  nga, được  các vua nhà
          Nguyễn  ban  10  đạo  sắc  phong,  các  nhà  khoa  bảng  đề  thơ ca
          tụng... hằng năm dân làng thường xuyên mở hội.
             Trong Thư tịch  cổ cho biết,  khi được vua  Lý Thái Tổ trao
          cho  trọng  trách  dời  đô,  Đào  Cam  Mộc  chuẩn  bị  hai  đoàn
          thuyền  gồm  300  chiếc,  một  ngả  đi  đường  biển  qua vùng  đất
          huyện Hải Hậu, Xuân Thủy mới bồi sau thời Lý vào sông Hồng
          lên thành Đại La; một ngả nơi sông Nhị cũng lên thành Đại La.
          Khi thuyền đến chân thành, thấy có hai con rồng vàng hiện ra
          chào đón, nhà vua mới gọi kinh thành là Thăng Long.

              Bản “Tự phả chùa cổ Đông Hải”, do Minh Tuệ thiền sư trụ trì
          chùa chép năm Canh Tý (1840), cũng theo Ngọc phả thời Lê do
          Quản giám bách thần Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc (1557)
          ghi rằng: Chùa này có từ thời Đinh - Tiền Lê, gần biển nên gọi là
          chùa Đông Hải. Thời trẻ Đào Cam Mộc từng tu học,, giỏi võ, thông
          văn được sư tổ cho đi tìm minh quân, sau đó ông vào Hoa Lư làm
          quan cho nhà Tiền Lê, nhà Lý. Tháng 6-1010, Lý Thái Tổ phong
          Đào  Cam  Mộc  chức  Thiên  Đô  tiên  phong  tướng  quân  chỉ  huy
          cuộc dời đô, tại đây triều đình làm Lễ tế cáo trời đất, xuất quân
   13   14   15   16   17   18   19   20   21   22   23