Page 66 - Các Bệnh Kí Sinh Trùng
P. 66

BỆNH SÁN LÁ RUỘT
                                     (Fasciolopsiosis)

              1. Phân  bô
                  Trên  thế giới:  Bệnh  sán  lá  ruột  lợn  phân  bô  rộng ở các  nước
              nhiệt đới  châu  Á:  Trung Quốc, Đài  Loan, Việt Nam,  Cãmpuchia,
              Lào, Malaysia, Inđônêxia, Philippin, An Độ, Thái Lan, Srilanca...

                  Ở  Việt  Nam,  bệnh  sán  lá  ruột  lợn  đã  có  từ  lâu  đời,  nhưng
              mãi  đến  1911,  Mathis,  Leger  và  Bauche  mới  mô  tả  loài  sán  lá
              này khi thu thập mẫu vật từ ruột  lợn và một số người bệnh ở Bắc
              Bộ.  Đặng Văn Ngữ và Galliard (1941) thấy tỷ lệ nhiễm của lợn 6
              -  12%  vào tháng  ba và 47%  vào  tháng  12.  Hai  tác  giả này cũng
              thấy  5  người  bệnh  nhiễm  sán  lá  ruột  lợn.  Những  năm  gần  đây,
              một  số kết quả điều  tra cho thấy  lợn nhiễm  sán  lá ruột  với tỷ lệ
              rất cao:  78,4%  (Phan Địch Lân,  1963); 41% (Bùi Lập,  1965);  50
              - 60% (Phạm Văn Khuê,  1982), 40% (Nguyễn Văn Thọ, 2002).

              2. Nguyên nhân
                  Bệnh  ở  lợn  gây  ra  do  sán  lá  ruột  Fasciolopsis  buski,
              Lankaster,  1857, Ký sinh ở ruột non của lợn.

             3. Đặc điểm sinh học
                 Hình thái
                 Sán  trưởng  thành  khi còn  sống có  mầu  hồng  hình  dẹp,  phía
             đầu  sán  nhô  lên,  tiếp  theo  phần  thân  phình  to nơi  giáp đầu  sán,
             sau lại thon dần, giống hình  một chiếc lá. Sán có kích thước  15 -
             50  X  8,5  -  12,2mm,  chiều  dầy  0,2  -  0,3mm.  Trứng  sán  có  hình
             trứng,  kích  thước  0,130  -  0,130  X  0,080  -  0,045mm,  màu  xám
             vàng hoặc vàng.
                 Sán có 2 giác: giác miệng và giác bụng để bám vào ruột.


             62
   61   62   63   64   65   66   67   68   69   70   71