Page 402 - Bửu Ngôn Du Lịch 3 Miền Tập 2 Trung
P. 402
HUẾ (054) • 389
Ngôn ngữ của kiến trúc
Mỗi lăng vua ở Huế đều có 3 đơn vị, là điện thờ, nhà bia, và khu
mộ. Vậy mà các lăng đều khác nhau. Mỗi vị vua dùng cách bố trí
kiến trúc để nói lên cái tính cách, cái đặc biệt của triều đại mình.
Vua Gia Long (1802-1819), đã chiến đấu gian khổ 24 năm ròng
để mở ra triều Nguyễn. Ý tưởng chủ đạo của lăng là cái đơn giản
của người lính và cái vĩ đại của người dựng nghiệp. Nhà bia, điện
thờ và ngôi mộ nằm trải dài trong rừng thông, không có rào bao
quanh. Điện thờ Minh Thành, theo ý nhà vua, không sơn son thếp
vàng, chạm trổ chắc khoẻ.
Vua Minh Mạng (1820-1840), lên ngôi với sứ mạng thiết lập
một trật tự Nho giáo. Khẩu hiệu của nhà vua là 'Chính đại Quang
minh'. Bố cục lăng theo một đường thẳng rõ ràng, trật tự.
Vua Thiệu Trị (1840-1847), làm vua một cách yên ổn, và lăng
cũng rất ít cá tính.
Vua Tự Đức (1847-1883) làm thơ rất nhiều, đến 4.000 bài thơ
chữ Hán, 100 bài chữ Nôm, hàng trăm bài ký. Nhà vua muốn ngôi
lăng của mình phải là một bài thơ, với nhà thuỷ tạ soi bóng hồ sen,
với những lối đi uốn lượn dưới rặng thông.
Vua Khải Định (1916-1925) lên làm vua trong buổi giao thời.
Bố cục lăng, bên cạnh rồng phượng, phảng phất kiểu lâu đài Tây
Phương.
khắc bài ‘Khiêm Cung ký’ dài 5.000 chữ do vua Tự Đức soạn
(vua không có con nên phải tự soạn lấy). Mộ nhà vua kiểu
ngôi nhà đá giống ở lăng Gia Long.
Phía trong cùng lăng có mộ bà hoàng hậu, trang trí chim
phượng. Và mộ vua Kiến Phúc (1884), chỉ ở ngôi vua được 6
tháng thì mất, theo lời đồn thì bị đầu độc.
Lãng Đồng Khánh
ít người ghé thăm mặc dù đường đi rất thuận tiện, cùng
một đường vào lăng Tự Đức, chỉ đi thêm 500m. Triều Đồng
Khánh đất nước đã mất độc lập, triều đại chỉ kéo dài có 2