Page 133 - Bệnh Phụ Nữ Và Cách Điều Trị
P. 133

diều trị ung  thư vú từ những năm đầu thế  kỉ XX.  Vai
             trò  của  điều  trị  tia  xạ  trong  việc  hạn chế  tái phát đa
             được khẳng định, my nhiên xạ  trị cũng làm tăng nguy
             cơ mắc ung thư thứ phát và nguy cơ mắc một ro bệnh
             tim  mạch. Xạ  trị  sau phẫu thuật cắt tuyến vú  thường
             sử dụng các trường chiếu liếp tuyến để  tiánh làm  tổn
             thương nhu mô phổi với tổng liều 50 Gy.

                 T tong trường  hỢp có di căn hạch nách, có thể bổ
             sung trường chiếu nách và thượng đòn với liều 50 Gy.
             Xạ  tiị  sau  phẫu  thuật  bảo  tồn  luyến  vú  thường  sử
             dụng  trường chiếu  lộng để phòng  ngÌÊỉ  tình  tiạng  tái
             phát tại tuyến vú và hạch nách, liều chiếu 50 -60 Gy.
                Hoá trị
                 Nhờ những  hiểu  biết sâu hơn  về  sinh  bệnh  học
             ung  thư vú  mà  ngày nay chỉ  dịnh  diều  trị  hoá  chất
             đã được mở lộng cho nhiều dối tượng bệnh nhân bởi
             lẽ  theo quan điểm mới ung  thư vú là bệnh toàn thân.
                 Hình  thức áp dụng  hóa  trị  liệu cũng phong phú
             từ điều trị cho bệnh nhân giai đoạn không mố  được
             tại  thời  điểm  chẩn  doán  (điều  trị  hoá  chất  tân  bổ
             trỢ),  điều  trị  hoá  cliất sau  mổ  (điều  trị  bổ  tiỢ) cho
             những  bệnh  nhân có  di căn  hạch  nách  hoặc  có các
             yếu tố nguy cơ cao dến diều trị triệt căn khi bệnh đã
             ở giai đoạn muộn.
                 Hoá chất ít khi  sử dụng  đơn  hoá  trị  mà  thường
             có sự kết hỢp các  thuốc trong các phác  đồ  đa  hoá  trị
             liệu. Đã có rất nhiều các phác đồ hoá trị liệu được áp
             dụng, nhưng  sơ bộ có  thể  phân  ra  làm 3  nhóm:  Các



             134  HOÀNG  THÚY     S0<IM
   128   129   130   131   132   133   134   135   136   137   138