Page 353 - Nhân Vật Lịch Sử Tiêu Biểu
P. 353
bước nhân nhượng cuôì cùng. Tại Vạn Phúc, Hội nghị bất thường
Ban Thường vụ Trung ương mở rộng dưới sự chủ tọa của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã phân tích tình hình, đề ra những nội dung cơ bản
của đường lối kháng chiến và quyết định toàn quốc kháng chiến.
Mục tiêu chiến lược của cuộc kháng chiến toàn quốc mà Hà Nội
được chọn làm chiến trường chính trong trận mở đầu được xác
định là: tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quân địch, chiến đấu giam
chân chúng càng lâu càng tốt; đi đôi với giữ gìn lực lượng ta, theo
dõi sát tình hình Mặt trận để lúc cần thì chủ động rút lực lượng ra
ngoài, cùng toàn quân và toàn dân kháng chiến lâu dài. Cũng
chính tại Vạn Phúc, Bác Hồ đã soạn thảo Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu m ất nước, nhất định không chịu làm nô lệ... Ai có súng dùng
súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc,
thuổng, gậy gộc... thắng lợi nhất định về dân tộc ta”1.
Từ việc nắm vững tương quan lực lượng địch - ta hết sức chênh
lệch, Bộ chỉ huy kháng chiến thấy rõ ta không thể tiến công tiêu
diệt toàn bộ quân địch mà cũng không thể đặt vấn đê' tử thủ thành
phô’ đến cùng. Bởi vì, nếu đề ra nhiệm vụ tiến công tiêu diệt địch thì
vượt quá khả năng của ta và rất phiêu lưu mạo hiểm, không những
đánh không nổi mà dễ thất bại nặng nề ngay từ ngày đầu kháng
chiến. Nếu đề ra phòng ngự giữ thành phô' đến cùng thì phải đem
toàn lực “tử thủ” thì chắc chắn dẫn đến tổn thất nghiêm trọng về lực
lượng, tạo bất lợi cho kháng chiến lâu dài. Vì vậy, ta phải tiến hành
phòng ngự một thòi gian, tích cực làm tiêu hao sinh lực địch, ngăn
chặn làm chậm bưóc tiến của địch càng lâu càng tốt rồi mới rút lui
đúng lúc đê bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài. Chính từ sự chỉ
đạo dó mà cuộc chiến tranh ở Hà Nội luôn giữ được thê chủ động:
chủ động tiến công địch trước, chủ động trong quá trinh chiến đấu
trong 60 ngày đêm làm cho địch luôn phải bị động đánh theo cách
đánh của ta và cuối cùng là chủ động rút quăn an toàn.
1. Hồ Chi Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.480.
355