Page 11 - Những Nền Văn Hoá Cổ Đại Trên Lẫnh Thổ Việt Nam
P. 11
12 Tủ sách 'Việt Nam - đắt nưức, con người'
mặt đồi đất đỏ ở Xuân Lộc (Đổng Nai) và An Lộc (Bình Dương),
công cụ đá basalt với các loại hình: Rìu tay, công cụ ghè một
mặt, mũi nhọn, hòn ném (bolas)... về mặt kỹ thuật tiến bộ hơn
so với Núi Đọ.
Sơ kỳ đá cũ Việt Nam có nhiều nét tương đồng với sơ kỳ
đá cũ Đông Nam Á, với các di tích như Tampan (Malaysia),
Pajitan (Indonexia)...
Bấy giờ, mực nước biển Đông thấp gần trăm mét so với
ngày nay. Vì vậy, đất nước ta khi ấy qua bán đảo Ma-lai-xi-a
còn nối liền với các đảo Gia-va, Xu-ma-tơ-ra, Ca-li-man-tan của
In-đô-nê-xi-a. Các kết quả nghiên cứu địa chất và khí hậu học
còn cho biết trong thời kỳ này xen kẽ những kỳ khô hạn là
nhũng kỳ mưa nhiều khiến khí hậu Việt Nam ẩm và mát hơn
bây giờ một chút. Trong rùng rậm, trên thảo nguyên, có nhiều
đàn voi răng kiếm, gấu mèo, tê ngưu, lợn lòi, hổ, báo, hươu,
nai, đười ươi, vượn, khi, cầy, chồn... sinh sống. Những bầy
người nguyên thuỷ sống dựa vào hang đá, lùm cây, đi dọc bờ
suối, bờ sông tìm kiếm thức ăn bằng hái lượm và săn bắt.
Cách ngày nay khoảng ba, bốn vạn năm, vào thời kỳ bộ
tộc nguyên thuỷ, cư dân bản địa đã đông đúc hon. Người ta đã
phát hiện được dấu tích con người cùng với nhũng hóa thạch
động vật cổ ở hang Hùm (Yên Bái), hàng Thung Lân (Ninh
Bình). Đó là nhũng thị tộc, bộ lạc sống trong hang động miền
núi đá vôi. Tuy nhiên, cũng đã có những thị tộc, bộ lạc tiến ra
sinh sống ở miền đồi trung du vốn là miền phù sa cổ của sông
Hồng với rùng rậm phủ dày. Những hiện vật đá cuội ghè đẽo
thô sơ thuộc cuối thời đại đồ đá cũ hoặc đầu thời đại đồ đá
giũa tìm thấy ở di chỉ Sơn Vi (Phú Thọ) là những minh chứng
chắc chắn cho giả thuyết này.