Page 130 - Những HiệnTượng Bí Ẩn Về Nhân Loại
P. 130

m m
 4     n     ninũnc Hiện TuợnG ế í Ẩn về nHÂn LOẠI

      Đây  là  loại  chữ  viết  dùng biểu ý,  biểu  âm và  do các bộ
      thủ hợp thành.
          Ký  hiệu  biểu  ý  xuất  phát  từ  những  bức  tranh  và
      hình ảnh biểu thị một sô khái niệm hoặc định nghĩa về
      sự  vật.  Ban  đầu  khi  chữ  tượng  hình  Ai  Cập  mói  xuất
      hiện,  bất kỳ  một vật gì  có  thể vẽ ra  được,  người  ta  đều
      dùng  hình  ảnh  của  sự  vật  đó  để  biểu  thị  cho  nó.  Mỗi
      hình ảnh biểu thị là một từ. Ví dụ:  Biểu thị nước là một
      vệt  sóng;  một  vòng  tròn  với  một  dấu  chấm  bên  trong
      biểu  thị  cho  m ặt  trời.  Nguyên  tắc  tạo  ra  chữ  viết  này
      được sử dụng trong suốt  một triều đại. Từ việc viết chữ
      theo hình dáng của vật có thể sáng tạo thêm  rất nhiều
      ký hiệu mới.  Những sinh vật và vật phẩm  dùng để biểu
      thị  cho  những  chữ  tượng  hình  ban  đầu  khi  mới  hình
      thành vẫn chưa xuất hiện.  Do đó,  những ký hiệu biểu ý
      đã  trực  tiếp  dùng hình ảnh  để biểu  thị ý nghĩa của  từ.
      Nhưng nó  không giống với  hội họa,  bởi  có  tính chất ký
      hiệu  quy  ưốc  hình  thành  rõ  ràng.  Ví  dụ,  chữ  “con  bò”
      được biểu thị bằng chính hình ảnh của nó, nhưng lễ vật
      “con bò” trong cách nói của nghi thức cúng lại chỉ có thể
      dùng cái  đầu  của  con bò  để biểu  thị.  Đây chính  là  quy
      định của việc tạo chữ.
          Do ký hiệu biểu ý của chữ không thể hiện được cách
      phát  âm  của  nó,  vì vậy  người Ai  Cập  đã  phát  minh  ra
      ký  hiệu  biểu  âm.  Ký  hiệu  biểu  âm   vẫn  là  những  hình
      ảnh,  gồm tấ t cả 24  âm.  Trên cơ sở đó cấu thành từ đơn
     và  đa  âm  tiết.  Ví dụ,  chữ  đơn  âm  “miệng” khi phát âm
      sẽ  là  “Y”,  chữ  đa  âm  “chim  én”  khi  phát  âm  là  “WR”,
     chữ ba âm “trứng côn trùng” phát âm  là “HPR”.



                                131
   125   126   127   128   129   130   131   132   133   134   135