Page 106 - Những Danh Tướng Trong Lịch Sử Việt Nam
P. 106
108 7i/ sách 'Việt Nam ~ đất nước, con ngưòi'
LănịỊ mộ Đ inh tướng công là mộ hụp táng, gồm tướng
công, chính thất Phạm T h ị Ngọc Điều, thứ thất Nguyễn T h ị
Ngọc Huống.
Mộ của Đ inh Văn Tả được an táng một lần, theo kicu
mộ xác ướp, bảo vệ di hài lâu dài. Năm 1942, khi thực dân
Pháp làm sân bay dã chiến, đã khai quật những ngôi mộ này.
Chính thất Phạm Th ị Ngọc Điều, được phcng "Âm Quận
công phu nhân", sau được phong 'Tain g đẳng f)ưong cảnh
Thành hoàng, T ư dung Đoan hạnh Trinh thục Huệ phương,
Ngọc Đào công chúa". Bà tạ thế glờ T ỵ , ngày 5 tháng 3 năm
Nhâm Thìn (1652). Sau khi mất được vua ban 12 chữ vàng:
"Kim chi ngọc diệp, Tiên phái thuần nữ, cẩn tiết công chúa". Bà
có 3 con trai theo cha đánh giặc và đều hi sinh tại chiến trường.
Th ứ thất Nguyễn T h ị Ngọc Huống, sinh năm Mậu Th ìn
(1628), là người thân thích với chính phu nhân, lấy tướng
công năm 21 tuổi. Bà có công lao giúp chồng đáng giặc,
nhiều lần mang của riêng cấp cho quân lính hoặc giúp dân
khi hoạn nạn. Năm Nhâm T ý (1672), theo chồng đánh giặc
ở Thuận Quảng (Thuận Hoá, Quảng Bình), sau lại về đánh
chiếm các vùng Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn, đào
hào đắp luỹ ở Cao Bằng, dụ giặc ra hàng, lập chiến công hiển
hách, được phong Đương cảnh Thành hoàng. Ngày 6 tháng
3 năm Nhâm Tuất (1682) bà qua đòi, được vua ban sắc
phong và cờ có chữ Duệ đê thờ phụng.
Hiện nay tại khu di tích còn 15 tấm bia nói về Đ inh
tướng công, trong đó có 7 tấm khắc dựng từ khi tưóng công
còn đang sống. Tác giả của nhữũg văn bia này phần lớn của
các vị đại nho đương thời biên soạn. Trong đình có đôi câu
đố i cổ nêu được tài năng và sự nghiệp của tướng công:
Năm 1993, Bộ Văn hóa có Q uyết định công nhận Đ ình -
i