Page 100 - Mênh Mông Biển Việt Tập 1
P. 100
I
30 tỉ đô la Mĩ) để thăm dò và khai thác dầu khí tại khu vực
này, ở độ sâu đến 2.000 m, thậm chí còn đặt cả chỉ tiêu về
sản lượng khai thác là 25 triệu tấn dầu và khí. (Tuy nhiên,
nhiều chuyên gia phưong Tây hoài nghi con số dự báo của
Trung Quốc về trữ lượng dầu khí ở Biển Đông, nhất là ở
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.)
Khi Luật Biển quốc tế 1982 đưọc lần lượt kí kết, mỗi
nước đều dựa trên những quy định của Luật để xác
định các vùng lãnh hải trên biển của mình. Các quốc
gia tuyên bố chủ quyền tại các đảo thuộc Trường Sa
đều kiềm chế tiến hành khai thác tài nguyên trên quy
mô lớn để tránh gây ra những cuộc đụng độ. Chỉ có
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là liên tục có những
hoạt động gây quan ngại trong vùng.
Nguồn cá phong phú cũng là một động lực cho yêu
sách chủ quyền. Năm 1988, Biển Đông chiếm 8% sản
lượng đánh bắt hải sản trên thế giói, và tỉ lệ đó đang
tăng đáng kể. Đã có nhiều vụ đụng độ giữa các tàu cá
Trung Quốc vói tàu của ngư dân Việt Nam, Philippines
và Indonesia trên biển. Trung Quốc ước tính giá trị thu
được từ việc đánh bắt cá và khai thác đầu khí ở Biển
Đông có thể đạt hằng năm 1.000 tỉ đô la Mĩ.
Nhiều tranh cãi đã xảy ra về việc phân định lãnh
hải ữên Biển Đông và chia sẻ các nguồn tài nguyên. Luật
Biển năm 1982 của Liên Họp Quốc cho phép các nước
có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) mở rộng 200 dặm biển
(370,6 km) từ lãnh hải của mình, và tuyên bố chủ quyền