Page 24 - Liệu Pháp Đông Y Tự Nhiên Trị Bệnh
P. 24

Phụ lục:

              PHƯƠNG VỊ VÀ TÊN GỌI CÁC VỊ TRÍ TRONG TRUNG Y

          Trước  khi  tham  khảo phần  giới thiệu  cụ  thể  về phương pháp  xác  định  vị
      trí, bạn đọc cần tìm hiểu một số phương vị và tên gọi vị trí được dùng trong y
      học Trung y. Trong đó việc miêu tả phương vị phải dựa trên tư thế đứng thẳng
      tự nhiên của con người,  hai tay buông  xuống,  lòng bàn tay  úp vào trong,  hai
      chân và vai gióng thẳng với nhau.

                        Mặt trong  lòng  bàn  tay  (tức  là  mặt  cong)  gọi  là  mặt  trong,  là  vị  trí
                       phân bố của kinh huyệt Thủ tam âm; mặt sau của tay (tức là mặt duỗi),
                       gọi  là  mặt  ngoài  là  vị  trí phân  bố của  Kinh  huyệt thủ  tam  dương.  Chi
                       dưới lấy chỗ gắn mặt chính diện của cơ thể làm mặt trong, là vị trí phân
        Trong và ngoài
                       bố Kinh  huyệt Túc tam âm;  lấy chỗ xa  mặt chính  diện  làm  mặt ngoài;
                       phía  sau  chi dưới  làm  mặt sau,  là vị trí phân  bố của  huyệt vị  Túc tam
                       dương. Đầu  mặt và thân  người,  lấy chỗ gần  mặt chính  diện  làm trong,
                       chỗ xa mặt chính diện làm ngoài.
                        Phàm là chỗ gần mặt bụng của cơ thể gọi là trước, chỗ gần mặt sau

                       thì gọi  là sau.  Như sự phân bố kinh  mạch  của cơ thể lấy huyệt Dương
                       minh  ở phía trước,  huyệt Thái  dương  ở phía  sau,  huyệt Thái  âm  phía
         Trước và sau  trước,  huyệt Thiếu âm  phía sau,  sự phân  bô' của  kinh huyệt cũng vậy.
                       Trong  châm  cứu,  khi  miêu tả vẽ vị trí của  huyệt vị, có lúc lấy đoạn xa
                       làm trước, đoạn gắn làm sau như huyệt Nhị gian trong mục này ở phía
                       trước, Tam gian trong mục này ở phía sau.
                        Thông  thường  lấy chỗ  cao  làm  trên,  chỗ  thấp  làm  dưới.  Như huyệt
                       Trung  uyển  ở phía  trên  rốn  4 tấc,  huyệt Trung  cực ở phía  dưới  huyệt
         Trên và dưới
                       Quan  nguyên  1  tấc,  huyệt Túc tam  lý ở phía  dưới  mắt đầu  gối  3 tấc,
                       huyệt Nội quan ở trên huyệt đại lăng 2 tấc.
          Ngoài ra, trong châm cứu lấy sự di chuyển của mặt trong của tay, chân và
      da của mặt sau làm Bạch nhục tế; khớp tay hoặc khófp chân đều gọi là khớp.
          Chính  diện  của  phía  trước  và phía  sau  của  mặt  đầu  và thân  người  phân
      biệt  thành  vị  trí  phân  bố  của  Kinh  huyệt  Nhậm  mạch  và  Kinh  huyệt  Đốc
      mạch,  là cơ sở để thẩm  định  sự phân  bố hai  mặt của huyệt Tam  âm kinh và
      Tam dương kinh.




                                           25
   19   20   21   22   23   24   25   26   27   28   29