Page 96 - Các Chuyên Đề Về Nguy Cư Sức Khỏe
P. 96

Tại  các  tỉnh  thuộc  khu  vực  miền  núi  phía  Bắc  nước  ta  tình  hình  nhiễm



                                                HIV/AIDS cũng đang có xu hướng không ngừng gia tăng trong những năm gần


                                                đây. Tại Yên Bái, tốc độ lây nhiễm HIV năm sau cao gần gấp đôi với năm trước:


                                                năm 2001  có  73 trường hợp,  năm  2002 có  133 và  9 tháng đầu năm 2005 con số



                                                đã là 327 trường hợp. Tại Bắc Kạn: nếu nàm  1998 chỉ phát hiện có 2 trường hợp


                                                thì đến ngày 31 tháng 12 nàm 2005 sô" người nhiễm HIV luỹ tích đã lên tới 825.





                                                              Đặc  biệt  nhiễm  HIV  trong  nhóm  nghiện  chích  ma  túy  (NCMT)  đã  xuất


                                                hiện  hầu  hết ở các  khu vực trên thế giới. Trong khi  ở các  nưóc  phát  triển dịch


                                                phát triển  ở thập  niên  80 và có xu  hưỏng giảm  dần  ở thập  niên  90,  thì  tại các



                                                nước đang phát triển dịch có chiều hướng gia tăng chưa thấy thời điểm dừng. Tỉ


                                                lệ nhiễm HIV của NCMT chiếm  70% tại Trung Quốc  (2001),  63% tại Myanmar



                                                (2000), 80% tại Manipur - Ấn Độ (2000) và 50,8% tại Việt Nam (2003) trên tống



                                                số trường  hợp  nhiễm  HIV  của  mỗi  quốc  gia  này.  Ở  Việt  Nam,  hình  thái  lây



                                                truyền HIV chủ yếu qua đưòng tiêm chích ma túy. Tỉ lệ nhiễm HIV trong nhóm


                                                NCMT có  chiều  hướng  ngày  một  gia  tăng:  13,4%  năm  1997  đến  năm  2003  đã


                                               là 29,3%.





                                                              Liên hiệp quốc đã tổng kết  10 chiến lược thành công trong công tác phòng


                                               chống  HIV/AIDS.  Một  trong  những  chiến  lược  đó  là  xét  nghiệm  tư  vấn  tự



                                               nguyện  mà  bài  học  điển  hình  là  Uganda  đã  đẩy  lùi  tỉ  lệ  nhiễm  HIV  từ  21,1%


                                                (năm  1991)  xuống  6,4%  (năm  2001).  Xét  nghiệm  tư  vấn  tự  nguyện  không chỉ


                                                đóng vai  trò  quan  trọng  trong dự  phòng mà còn  là  điểm  vào của  những  quyết



                                                định  thành công cho nhiều  hoạt động phòng chống  HIV trong  đó có cả chương


                                               trình điều trị kháng virus (ARV) cho người nhiễm HIV sắp được triển khai ỏ các



                                                nưốc đang phát triển.




                                                              Tư vấn,  xét nghiệm, chăm sóc  HIV/AIDS là  những can thiệp có liên quan


                                               với  nhau  được  kết  nối  nhằm  đảm  bảo  cho  những  ngưòi  nhiễm  HIV  và  những


                                               người có nguy cơ cao nhiễm HIV có khả năng tiếp cận được xét nghiệm HIV.  Có



                                                thể biết được sớm về tình trạng nhiễm HIV của bản thân,  nhận được tư vấn dự


                                                phòng HIV có chất lượng nhằm  làm  giảm  nguy cơ  nhiễm  hoặc  lây  truyền HIV



                                                và tiếp cận được với các dịch vụ y tế, dự phòng và  hỗ trợ tâm lý thích hợp. Tuy


                                                nhiên  tùy  theo  các  giai  đoạn  nhiễm  HIV/AIDS  mà  vai  trò  của  tư  vấn,  xét


                                                nghiệm, chăm sóc HIV/AIDS trong từng giai đoạn có sự khác nhau:





                                                              - Thời  kỳ nhiễm  trùng tiên  phát:  Tư vấn  để  người có  hành  vi  nguy  cơ tự


                                                              nguyện  đi xét  nghiệm,  thay  đổi  hành vi,  tư  vấn  tiếp  cận  dịch  vụ  quản  lý



                                                              chăm sócnhiem H ĨV/AIDs.




                                                              - Thời  kỳ  nhiễm  trùng  không  triệu  chứng:  Tư  vấn  về  diễn  biến  tự  nhiên


                                                              của bệnh, các chiều hướng phát triển bệnh, các thuốc điều trị và rèn luyện



                                                              sức khoẻ, các phương pháp phòng lây nhiễm cho gia đình.




                                                              - Thời kỳ nhiễm trùng dai dẳng:  Tư vấn vế dinh  dưỡng,  phát hiện sốm và


                                                              điểu trị nhiễm trùng cơ hội (NTCH), tư vấn theo dõi diễn biến lâm sàng và



                                                              cận lâm sàng và tư vấn tiếp cận điều trị ARV và hỗ trợ tinh thần.




                                                96
   91   92   93   94   95   96   97   98   99   100   101