Page 76 - Bệnh Ung Thư Cách Phòng Và Điều Trị
P. 76

NGUYỄN  VĂN NHƯƠNG


  dạng  estrogen  tổng  hợp  đưọc  sử  dụng  khoảng  năm  1940-
  1971.  Thai  phụ  thường  sử  dụng  DES  trong  suốt  thai  kì  để
  phòng ngừa biến chứng được xác định có nguy cơ ung thư  vú
  khá  cao.  Nguy  cơ này không hiện diện ở con gái  họ,  đã tiếp
  xúc với DES trước khi chào đời. Tuy nhiên, vẫn cần chủ ý khi
  những bé gái này đến khoảng tuổi mà ung thư  vú thường gặp.

        Sinh con muộn: phụ nữ sinh con so muộn(sau 30 tuổi)
  có nguy cơ nhiều hơn người sinh con sớm.

        Mật  độ  của  vú:  trên  phim  chụp  nhũ ảnh cho  thấy  dầy
  đặc  thuỳ  và ổng dẫn sữa nhưng rất cân đối.  Ung thư vú  gần
  như luôn phát triển từ mô thuỳ hay mô ống dẫn (không phải
  mô mỡ). Điều đó cho thấy tại sao ung thư  vú thường xảy ra ở
  những  vú  có  nhiều  mô  tuyến  và ống  dẫn  hơn  những  vú  có
  nhiều mô mỡ. Hơn nữa, với những vú mật độ dày, bác sĩ khó
  thấy những vùng bất thường trên phim chụp nhũ ảnh hơn.

        Xọ trị: nữ < 30 tuổi, vú tiếp xúc tia xạ trong khi xạ trị,
  đặc biệt là đã điều trị bệnh Hodgkin’s bằng tia xạ.

        Rượu:  vài  nghiên  cứu  cho  thấy,  phụ  nữ uống  rưọn  sẽ
  tăng nguy cơ ung thư  vú.
        Phần lớn phụ nữ bị ung thư vú mà không có những yếu
  tố nguy cơ trên, ngoại trừ nguy cơ xuất hiện theo sự gia tăng

  tuổi tác. Các nhà khoa học đang hướng đến những nghiên cứu
  về nguyên nhân gây ung thư  vú để hiểu nhiều hơn về yểu tố
  nguy cơ và cách phòng ngừa bệnh này.

                                                             77
   71   72   73   74   75   76   77   78   79   80   81