tư tưởng Hồ Chí Minh Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/tu-tuong-ho-chi-minh Cổng Vào Tri Thức Mon, 27 Nov 2023 08:44:51 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/wp-content/uploads/2024/12/cropped-logotvbt-32x32.png tư tưởng Hồ Chí Minh Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/tu-tuong-ho-chi-minh 32 32 Học tập theo cách nói và viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/hoc-tap-theo-cach-noi-va-viet-cua-chu-tich-ho-chi-minh.html Mon, 27 Nov 2023 08:44:51 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=24808 Câu hỏi này không có gì mới. Câu trả lời càng không. Bởi tự bao giờ, từ người nông dân

The post Học tập theo cách nói và viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Câu hỏi này không có gì mới. Câu trả lời càng không. Bởi tự bao giờ, từ người nông dân chân lấm tay bùn đến các học giả uyên thâm đều thừa nhận Hồ Chí Minh là bậc thầy nói và viết. Người nói và viết, từ chuyện đơn giản nhất đến điều hệ trọng nhất đều rất dễ hiểu; giản dị mà không nôm na, đại chúng, bình dân mà không tầm thường, dễ dãi. Tất cả đều ngắn gọn, hàm súc, không hề làm ra vẻ cao siêu mà vẫn đầy chất trí tuệ. Bút pháp và phong cách của Người biến hóa vô cùng sinh động. Khi cụ thể, trực quan: “Dùng người như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được”. Khi hết sức kiệm lời mà mỗi câu từ lại mang sức nặng của một tuyên ngôn: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” hay “Dân cường thì quốc thịnh”. Khi chân thành khảng khái: “Tôi xin đồng bào cứ bình tĩnh, Tôi xin hứa với đồng bào rằng Hồ Chí Minh không phải là người bán nước”. Lúc đanh thép, kiên quyết: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Lại có khi hồn hậu, khiêm nhường: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”. Và cũng không kém phần hài hước, ý nhị. Chẳng hạn, khi phê phán thói ham chuộng hình thức, Người nói: “Thí dụ, ngày nay tập quân sự, cốt là biết bắn súng, dùng dao, ném lựu đạn, dùng địa thế, khéo mò đêm, khéo trinh thám, nói tóm lại, cốt tập cho mọi người biết đánh du kích. Thế mà có nhiều nơi chỉ để thì giờ tập một hai, một hai”. Thế thì khác gì tập lễ nhạc để đi chữa cháy”.

Vậy là, với Hồ Chí Minh, nói và viết đã vượt qua giới hạn của kỹ năng sử dụng ngôn từ thuần túy, trở thành một nghệ thuật, thứ nghệ thuật giàu khả năng chinh phục, đi thẳng vào lòng người đọc, người nghe.

Vì sao phải học tập cách nói và cách viết của Bác Hồ? Vì mấy lẽ: một là, vì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của con người. Muốn làm chủ quá trình tư duy và nâng cao hiệu quả giao tiếp, mỗi người chúng ta đều phải trau dồi khả năng nói và viết; hai là, đối với đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là với người lãnh đạo, kỹ năng nói và viết càng cần thiết hơn, một người lãnh đạo có ý tưởng tốt mà không làm cho quần chúng và cấp dưới hiểu được ý tưởng đó, thì sẽ gặp rắc rối trong điều hành, quản lý. Cấp trên mà nói nhạt, nói lặp, nói dài, nói rỗng, nói không chuẩn mực, cấp dưới sẽ buồn ngủ, chán nản, thậm chí xem thường. Học tập Bác, chúng ta phải học:

– Thứ nhất là, dù nói hay viết, trước hết đều phải xác định đúng và trúng đối tượng. Xác định sai đối tượng chắc chắn sẽ thất bại, giống như “đưa giá trị thặng dư nhồi sọ cho thanh niên và phụ nữ nông dân, đưa tân dân chủ nghĩa nhồi sọ các em nhi đồng, đưa biện chứng nhồi sọ công nhân đang học quốc ngữ”. Về vấn đề này, chúng ta có thể thấy rất rõ sự biến hóa và uyển chuyển của “bậc thầy” Hồ Chí Minh trước từng đối tượng, trong từng tình huống.

Với nông dân, Người nói theo cách nói của họ, mộc mạc, đơn sơ mà đầy thôi thúc:

“Ruộng rẫy là chiến trường

Cuốc cày là vũ khí

Nhà nông là chiến sỹ

Hậu phương thi đua với tiền phương”

Với phụ nữ, từ nỗi e ngại của họ, Người khuyến khích: “Ngay việc ngồi cũng không bình đẳng. Phụ nữ muốn được bình đẳng không phải bảo Đảng và Chính phủ hay nam giới mời lên ngồi mới ngồi mà phải tự đấu tranh phấn đấu giành lấy.”

Với đồng bào miền Nam, trong bối cảnh Nam Bộ kháng chiến, Người làm ấm lòng đồng bào bằng sự quả quyết: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”

– Thứ hai là, nói hay viết đều phải ngắn gọn, súc tích.

Hồ Chí Minh không thích viết dài, Người giải thích: “Hiện nay, trình độ của đại đa số đồng bào ta bây giờ không cho phép đọc dài, điều kiện giấy mực của ta không cho phép viết dài và in dài, thì giờ của ta người lính đánh giặc, người dân đi làm, không cho phép xem lâu. Vì vậy, cho nên viết ngắn chừng nào tốt chừng ấy” .

Người gọi căn bệnh mà những ông Đại biểu, bà Đại biểu “nói hàng hai, ba giờ đồng hồ, nói gì cũng có, chỉ chừa một điều không nói đến là những việc thiết thực cho địa phương đó, những việc mà dân chúng ở đó cần biết, cần hiểu, cần làm” là bệnh “nói mênh mông”.

Người chê lối viết “dài, dòng này qua dòng khác, trang này qua trang khác, trường giang đại hải” là lối viết rau muống, dài dòng, rỗng tuếch. Và Người xếp cả bệnh “nói mênh mông”, “văn rau muống” vào cùng một hiện tượng có tên là “thói ba hoa”. Rồi không ngần ngại mà Người đặt tiêu đề: “Chống thói ba hoa” cho một phần lớn trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của mình.

– Thứ ba là, nói hay viết về vấn đề gì cũng cần phải giản dị, dễ hiểu.

Tại sao Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và nói đều luôn dễ hiểu? Vì Người muốn cho người xem, người nghe “hiểu được, nhớ được, làm được”. Bởi vậy, “phải viết cho đúng trình độ của người xem, người nghe, viết rõ ràng, gọn gàng, chớ dùng nhiều chữ”. Người khuyên: “Chớ ham dùng chữ. Những chữ mà không biết rõ thì chớ dùng. Những chữ mà tiếng ta có thì phải dùng tiếng ta, bất đắc dĩ thì mới phải dùng chữ”. Đừng nói “các đồng chí phải luyến ái nhau” trong khi đáng ra phải dùng từ “thân ái”. Nhưng cũng không thể nói kiểu “Việt Nam một mình”, trong khi cần thiêt phải dùng từ Hán Việt “độc lập”.

Những lời dạy của Hồ Chủ tịch cho đến nay vẫn không hề cũ, nhất là trong điều kiện chúng ta mở rộng hội nhập quốc tế, bệnh sính dùng từ ngoại, “tiếng Việt đá tiếng Anh” đang rộ lên như một thứ mốt, một biểu hiện của sự sành điệu, nhất là trong giới trẻ. Những lời dạy ấy càng phải quán triệt đối với những cán bộ, công chức vì họ không chỉ là những người trực tiếp tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước mà còn tham gia vào quá trình hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật ấy. Hơn ai hết, họ cần phải “học cách nói cho quần chúng hiểu”.

– Thứ tư là, nói và viết đều nên cẩn trọng, phải kiên trì và công phu.

Hồ Chí Minh không tán đồng lối làm việc “lụp chụp, cẩu thả”, nhất là trong khi nói và khi viết. Người đề cao khâu chuẩn bị: “nhiều người, trước khi nói không sắp sửa kỹ càng. Lúc ra nói hoặc lắp lại những cái người trước đã nói hoặc lắp đi lắp lại cái mình đã nói rồi, lúng túng như gà mắc tóc. Thôi đi thì trẽn. Nói nữa thì chán tai”. Người đề cao việc: “Viết rồi thì phải đọc đi đọc lại. Thấy cái gì thừa, câu nào, chữ nào thừa thì bỏ bớt đi. Đọc đi đọc lại 4, 5 lần đã đủ chưa? Chưa đủ. Đọc đi đọc lại, sửa đi sửa lại. Mình đọc mấy lần rồi cũng chưa đủ. Phải nhờ một số đồng chí công, nông, binh đọc lại. chỗ nào ngúc ngắc, chữ nào khó hiểu, họ nói ra cho thì phải chữa lại”. Vậy là, cùng với lời khuyên phải “nghĩ cho chín”, phải “sắp đặt cẩn thận”, Bác còn lưu ý chúng ta không nên giữ lòng tự ái cá nhân. Người khẳng định: “Nói tóm lại, viết cũng như mọi việc khác, phải có chí, chớ giấu dốt, nhờ tự phê bình và phê bình mà tiến bộ”.

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này, cán bộ, công chức phải nhận ra một thực tế: nói và viết trong quản lý hành chính Nhà nước, nếu qua loa, đại khái, cẩu thả, dễ dãi, hậu quả là khôn lường. Một phát ngôn tùy hứng trong một phút giây nông nổi có thể lan truyền với tốc độ nhanh khủng khiếp trên các phương tiện truyền thông, làm náo động dư luận. Một quyết sách vội vã có thể bắt cả xã hội phải trả giả và đưa uy tín của người lãnh đạo về số không. Vì vậy, suy ngẫm lại lời của Hồ Chí Minh không bao giờ thừa: “Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết. Khi không có gì cần nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn”.

– Thứ năm là, muốn nói và viết tốt nhất thiết phải chịu khó học hỏi, tích lũy, phải không ngừng nâng cao vốn liếng hiểu biết.

Hồ Chí Minh rất thực tế, Người cho rằng muốn viết phải có tài liệu. Và để trả lời cho câu hỏi “ Lấy tài liệu đâu mà viết?”, Người chỉ ra 5 cách để tìm. Đó là: nghe, hỏi, thấy, xem và ghi.

Nghe là lắng tai nghe cán bộ, chiến sỹ, đồng bào.

Hỏi là nắm tình hình ở các nơi từ những người đi xa về, hỏi nhân dân, hỏi bộ đội.

Thấy là phải đến tận nơi để xem xét.

Xem là  phải nghiên cứu, phải đọc báo chí, sách vở, nguồn báo chí sách vở càng đa dạng càng tốt.

Ghi là chép lại những gì đã nghe, đã thấy, đã hỏi được, đã đọc được để dùng mà viết. Nghĩa là phải đầu tư, phải chịu khó.

Bài học này thiết thực đối với tất cả chúng ta, nhất là những người làm công tác tham mưu về soạn thảo nội dung, cần phải tích cực học tập cách nói và viết như Bác để ngày càng nâng cao năng lực của bản thân, chất lượng tham mưu ngày một tốt hơn./.

(st)

Views: 1501

The post Học tập theo cách nói và viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-cong-tac-can-bo.html Mon, 27 Nov 2023 08:43:10 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=24805 Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”; cán bộ là vốn quý

The post Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”; cán bộ là vốn quý của cách mạng, có vốn mới làm ra lãi, bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công tức có lãi, không có cán bộ tốt thì hỏng việc tức lỗ vốn. Vì vậy, công tác cán bộ phải được xem là công việc gốc của Đảng, phải biết cách lựa chọn, sử dụng và không ngừng bồi dưỡng cán bộ để cái vốn quý đó ngày càng to lớn lên theo yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng.

Theo Hồ Chí Minh, muốn lựa chọn được cán bộ phải có tiêu chuẩn. Người quan niệm tiêu chuẩn không phải là cái gì không đổi, định ra một lần là đủ vì “cách mạng tiến lên mãi” nên người cách mạng cũng phải “tiến lên mãi”, nếu không sẽ trở thành lạc hậu bảo thủ. Trong cuốn “Đường kách mệnh”, Người đã nêu những điểm chính về tư cách người cách mạng. Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Người lại nêu ra những tiêu chuẩn để lựa chọn bồi dưỡng, sử dụng, xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Bước vào thời kỳ chống Mỹ cứu nước ở miền Nam và xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trong nhiều bài nói và viết của mình, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ chẳng những phải thạo về chính trị mà phải giỏi về chuyên môn, cán bộ lãnh đạo trong ngành nào thì phải biết chuyên môn về ngành đó. Theo Hồ Chí Minh, có tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ rồi thì còn phải biết cách xem xét, đánh giá để tìm ra những người đáp ứng được các tiêu chuẩn.

Quan điểm xem xét, đánh giá cán bộ của Người là: “Muốn xem xét, đánh giá cán bộ được đúng đắn, chẳng những phải xem xét cách công tác của họ, mà còn phải xem xét cách sinh hoạt của họ. Chẳng những xem xét cách viết, cách nói của họ, mà còn phải xem xét việc làm của họ có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không? Chẳng những xem xét họ đối với ta thế nào, mà còn phải xem xét họ đối với người khác như thế nào, phải biết ưu điểm của họ mà cũng phải biết khuyết điểm của họ, không nên chỉ xem xét công việc của họ trong một lúc, mà phải xem cả công việc của họ từ trước đến nay’”. Người còn chỉ rõ: “Muốn biết rõ cán bộ thì người cán bộ lãnh đạo trước hết phải sửa những khuyết điểm của chính mình, bởi vì mình càng ít khuyết điểm thì xem xét, đánh giá cán bộ càng đúng”.

Hồ Chí Minh coi việc sử dụng cán bộ là một nghệ thuật “Đảng phải sử dụng cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây quý báu”. Bố trí cán bộ thích hợp, tùy tài mà dùng người, họ có tài mà không dùng đúng cái tài của họ thì không được việc. “Thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tùy tài mà dùng người, thì hai người đã thành công”. Người căn dặn cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên nghe, hỏi ý kiến cấp dưới, phải khiến cho cán bộ cấp dưới dám nói và đề ra ý kiến; nếu ý kiến của họ không đúng thì nên dùng thái độ thân thiết giải thích cho họ hiểu.

Cán bộ lãnh đạo phải tạo cho cán bộ cấp dưới tùy cơ ứng biến trong khi giải quyết các công tác. Những người lãnh đạo khéo thì tài nhỏ hóa tài to, lãnh đạo không khéo thì tài to cũng hóa ra tài nhỏ. Khi đã bố trí cán bộ đúng vị trí lại phải vì phẩm chất, tài năng, vì công việc, vì sự lớn mạnh của tổ chức mà cất nhắc cán bộ, kiên quyết không vì yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang mà đề bạt cất nhắc cán bộ.

Để đào tạo xây dựng được đội ngũ cán bộ tốt, Hồ Chí Minh coi “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, Người yêu cầu phải xác định cho rõ huấn luyện cho ai, ai huấn luyện, huấn luyện gì, tài liệu huấn luyện ra sao, nhưng điều quan trọng nhất là xác định được mục đích của công tác huấn luyện đó làm sao cho mỗi cán bộ nâng cao thêm được nhận thức tư tưởng, tu dưỡng đạo đức cách mạng trong sạch hơn, tin tưởng hơn vào Đảng, vào nhân dân, vào tương lai của cách mạng, của dân tộc. Chính mục đích của công tác huấn luyện sẽ quy định nội dung, phương pháp, hình thức của công tác huấn luyện.

Theo Hồ Chí Minh, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ không chỉ dừng lại ở việc huấn luyện, dạy dỗ mà còn phải tiếp tục trong cả quá trình bố trí sử dụng cán bộ, quá trình hoạt động thực tiễn của cán bộ. Đào tạo, sử dụng cán bộ là một quá trình nối tiếp, xen kẽ, không tách rời, đứt đoạn bởi vì sự phát triển không ngừng của cách mạng càng đòi hỏi sự nâng cao không ngừng của mỗi cán bộ, đúng như lời Người đã nói: “Không phải vài ba tháng, hoặc vài ba năm mà đào tạo được một cán bộ tốt. Cần phải đào tạo, huấn luyện lâu năm mới được”.

Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng việc đào tạo thế hệ cách mạng cho đời sau. Người coi đó là “một công việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Tư tưởng chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng những người kế tục sự nghiệp cách mạng vừa thể hiện tầm nhìn chiến lược của một nhà cách mạng “lo hôm nay và lo cho muôn đời sau”, vừa thể hiện một tấm lòng ưu ái, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản: “Tre già yêu lấy măng non”.

Người chỉ rõ Đảng phải có trách nhiệm giáo dục, tổ chức, hướng dẫn họ thành những người kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân. Sinh mệnh Đảng, tương lai của dân tộc phụ thuộc vào việc Đảng có quan tâm đúng mức đến việc “trồng người” hay không.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm tới vấn đề phẩm chất đạo đức của người cán bộ. Để làm tròn nhiệm vụ của mình mỗi cán bộ, Đảng viên phải vừa có đức, vừa có tài, vừa có năng lực vừa có phẩm chất. Người nói: “có tài phải có đức, có tài mà không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho cách mạng, có đức mà không có tài như ông bụt trong chùa không có ích gì cho ai”.

Theo Người, đạo đức là “cái gốc”, là “nền tảng”, là cái căn bản của một chiến sĩ cách mạng. Người có tài phải thường xuyên bồi dưỡng phẩm chất đạo đức thì mới đem tài năng phục vụ đắc lực cho Đảng, cho dân. Đức là gốc, luôn làm cho tài năng phát triển; người thực sự có đức bao giờ cũng khiêm tốn, chịu khó học tập, phấn đấu nâng cao tài năng của mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng giao cho.

Mỗi người Đảng viên phải: trung với Đảng, hiếu với dân, vượt qua mọi thử thách, giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục, suốt đời vì dân, vì Đảng, vì cách mạng mà phục vụ. Việc tu dưỡng đạo đức là việc làm thường xuyên trong suốt cuộc đời của người cán bộ, Đảng viên. Trường học tốt nhất cho việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của cán bộ Đảng viên là trong hoạt động thực tiễn, trong phong trào cách mạng của quần chúng. Người căn dặn: không ai có thể chủ quan cho rằng đạo đức của mình là đủ, cũng như tự mãn nghĩ rằng đạo đức của mình là có thừa. Mỗi cán bộ Đảng viên phải học tập, phải rèn luyện đến già, cũng như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Vì vậy, mỗi cán bộ, Đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý cần nghiên cứu, suy ngẫm những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ để vận dụng vào thực tiễn hoạt động của mình để khắc phục những mặt hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ./.

(st)

Views: 3729

The post Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống quan liêu, tham nhũng https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-chong-quan-lieu-tham-nhung.html Mon, 27 Nov 2023 08:40:58 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=24801 Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, người thầy vĩ đại của cách mạng

The post Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống quan liêu, tham nhũng appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, người sáng lập, đặt nền móng và chỉ đạo việc xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Chỉ riêng về vấn đề phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tư tưởng Hồ Chí Minh đã là cả một kho tàng, ở tầm chiến lược và ngày càng ngời sáng qua thực tiễn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Bệnh quan liêu hết sức nguy hiểm, những người nào, nhất là lãnh đạo mà mắc phải bệnh này thì “có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững”, nơi nào bệnh quan liêu càng nặng thì nơi đó càng nhiều lãng phí, tham ô. Bệnh quan liêu tiếp tay cho những cán bộ kém, những người xấu thoả sức đục khoét ngân khố, tài sản quốc gia. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên; phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và nhân dân. Thực chất, bệnh quan liêu không phải chỉ đơn thuần là sai lầm về tác phong, phương pháp công tác mà chính là một căn bệnh nguy hiểm, có quan hệ trước hết và chủ yếu đến lập trường tư tưởng, đạo đức cách mạng; có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng và Nhà nước. Quan liêu đi liền với  mệnh lệnh, cửa quyền, coi thường quần chúng, làm khó cho người… Nó làm “biến dạng” các tổ chức đảng và cơ quan nhà nước, làm cho những tổ chức đó vốn là cơ quan lãnh đạo, đại diện quyền lực và là đầy tớ của dân trở thành những tổ chức xa dân, đứng trên nhân dân, thoát ly thực tế, dẫn đến đề ra quyết định, chính sách, chủ trương công tác không sát, thậm chí sai lầm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến mối quan hệ Đảng, Nhà nước và quần chúng.

Bác Hồ đã chỉ rõ : “Tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ giặc ở trong lòng”. Tác hại do tham nhũng gây ra cực kỳ to lớn về mọi mặt. Nó không những làm thiệt hại về kinh tế mà còn làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với chế độ ; làm rối loạn kỷ cương pháp luật, hư hỏng cán bộ… Trong khi “chiến sỹ thì hy sinh xương máu, đồng bào thì hy sinh mồ hôi nước mắt để đóng góp, mà những kẻ tham ô, lãng phí và quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian mật thám”. Về phương diện này, tệ tham nhũng đang là đồng minh của chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay.

Những tư tưởng về chống tham ô, lãng phí của Bác Hồ được nêu ra cách đây đã hơn 50 năm. Liên hệ với tình hình thực tế tham nhũng đang diễn ra ở nước ta hiện nay, chúng ta thấy, những lời dạy của Người là hết sức sáng suốt, mang tầm chiến lược và có giá trị thực tiễn vô cùng sâu sắc. Tình hình tham nhũng ở nước ta hiện nay đang diễn ra ở cả chiều rộng lẫn chiều sâu và sức công phá của nó không phải chỉ dừng lại ở lĩnh vực kinh tế mà cả chính trị, xã hội và là nguy cơ lớn nhất đe doạ mọi thành quả cách mạng của chúng ta.

Để làm theo tư tưởng của Bác Hồ trong đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đồng thời tiếp tục quán triệt và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, chúng ta cần phải tập trung giải quyềt những vấn đề cơ bản sau:

Một là, thường xuyên tự giác tu dưỡng, rèn luyện, phê bình và tự phê bình trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là nhiệm vụ rất quan trọng để chống quan liêu, tham nhũng. Muốn cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham ô, lãng phí có kết quả thì một vấn đề rất quan trọng là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phải luôn luôn rèn luyện phẩm chất “nêu cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Điều quan trọng là phải xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan Đảng, Nhà nước thật sự có chất lượng cao. Lựa chọn, bố trí cán bộ, công chức phải căn cứ vào tiêu chuẩn, công việc chung và năng lực thực tế của từng người. Bản thân người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, tích cực phê bình và tự phê bình, xây dựng cơ quan, tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.

Hai là, phải làm tốt công tác tư tưởng. Cán bộ lãnh đạo, quản lý càng phải nghiêm túc tự kiểm điểm để làm gương trong đơn vị, cơ quan mình. Trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng phải lấy giáo dục là chính, trừng phạt là phụ. Trong giáo dục, làm tốt công tác tư tưởng đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và quần chúng là nhiệm vụ có tính then chốt.

Ba là, phải dựa vào quần chúng, phát động quần chúng tích cực tham gia đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng. Nếu cán bộ lãnh đạo, quản lý biết tập hợp, vận dụng và chỉ đạo tốt quần chúng trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng thì nhất định kết quả thu được sẽ rất khả quan.

Bốn là, chấn chỉnh công tác tổ chức cán bộ. Để thực hiện nghiêm túc vấn đề này phải có sự đánh giá khách quan đội ngũ cán bộ, nhân viên hiện đang làm việc trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước. Xây dựng một quy chế đánh giá thật sự khoa học, dân chủ, công khai và đối thoại; phải xem xét toàn diện cả quá khứ, hiện tại và tương lai (khả năng phát triển) của mỗi cán bộ (nhất là cán bộ cao cấp). Sắp xếp lại bộ máy tổ chức sao cho gọn nhẹ, có hiệu lực và bố trí, sử dụng cán bộ cho phù hợp. Đồng thời, có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cả về nghiệp vụ chuyên môn và phẩm chất đạo đức cho từng đối tượng cán bộ, nhân viên các cấp, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Vấn đề quan trọng và mấu chốt đối với nhiệm vụ chống quan liêu, tham nhũng chính là phải xử lý cán bộ lãnh đạo, quản lý vi phạm pháp luật  một cách kiên quyết, công minh, để người có khuyết điểm phải chịu kỷ luật, người có tội phải bị xử tội, bất kể họ là ai, ở cấp bậc nào. Người đứng đầu một tổ chức, một địa phương, một ngành đến toàn quốc đã để cho cán bộ tham nhũng có tính nghiêm trọng, kéo dài thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và nhận kỷ luật đầu tiên trước Đảng, trước dân.

Muốn đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng có hiệu quả phải sử dụng những giải pháp đồng bộ cả về nhận thức tư tưởng và tổ chức, luật pháp và chính sách; các giải pháp vừa có tính chiến đấu cao, vừa khoa học, vừa kiên quyết và mạnh mẽ. Trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, cán bộ lãnh đạo, quản lý có vai trò và nhiệm vụ rất quan trọng. Họ vừa là hạt nhân, vừa đi đầu trong cuộc đấu tranh này; tự mình nêu gương sáng theo lời dạy của Bác Hồ: “Cần, kiệm, liêm, chính …”; đồng thời, phải thực hiện nghiêm chỉnh mọi chủ trương của Đảng và Nhà nước về chống quan liêu, tham nhũng/.

(st)

Views: 373

The post Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống quan liêu, tham nhũng appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Chủ tịch Hồ Chí Minh – tấm gương tiêu biểu, mẫu mực về sự thống nhất giữa lời nói và việc làm https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/chu-tich-ho-chi-minh-tam-guong-tieu-bieu-mau-muc-ve-su-thong-nhat-giua-loi-noi-va-viec-lam.html Mon, 14 Aug 2023 09:02:54 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=22119 Không chỉ yêu cầu cán bộ, đảng viên phải rèn luyện và nêu gương về đạo đức cách mạng, Chủ

The post Chủ tịch Hồ Chí Minh – tấm gương tiêu biểu, mẫu mực về sự thống nhất giữa lời nói và việc làm appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Không chỉ yêu cầu cán bộ, đảng viên phải rèn luyện và nêu gương về đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng. Ở Người, thống nhất giữa nói đi đôi với làm không chỉ là nguyên tắc đạo đức, là lẽ sống mà còn là biểu hiện sinh động của sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa suy nghĩ và hành động, giữa tư tưởng, đạo đức và tác phong. Ở bất kỳ hoàn cảnh nào, Người cũng luôn nhất quán thực hành, tu dưỡng đạo đức, kiên quyết phê bình, đấu tranh phòng và chống bệnh nói không đi đôi với làm. Tất cả những việc Người nói, những việc Người làm đều không ngoài một “sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. ​​​​​​​

Trong quan hệ và ứng xử, Chủ tịch Hồ Chí Minh không bao giờ dựa vào quyền lực, dùng quyền lực để hưởng đặc quyền mà luôn gương mẫu chấp hành quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I (ngày 06/01/1946) tại Hà Nội, khi được đề nghị không phải ra ứng cử, Người viết thư cảm tạ và đề nghị đồng bào để mình được thực hiện quyền công dân: “Tôi là một công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nên không thể vượt qua thể lệ Tổng tuyển cử đã định. Tôi đã ra ứng cử ở thành phố Hà Nội, nên không thể ra ứng cử ở nơi nào khác nữa. Tôi xin thành thực cảm tạ đồng bào nam, phụ, lão ấu khu vực ngoại thành Hà Nội”.

Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh và đức độ của Người là hiện thân của sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gắn liền với phẩm chất cao quý của người cộng sản trong thời đại mới, mà biểu hiện rõ nhất là tình đoàn kết quốc tế trong sáng. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ yêu Tổ quốc và Nhân dân mình, Người còn luôn mơ ước, phấn đấu cho một xã hội tốt đẹp, hòa bình và hạnh phúc cho tất cả những người cùng khổ.

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trong những năm qua, toàn Đảng đã triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Quy định số 101-QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 55-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên” và Quy định số 08-QĐi/TW về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”. Việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết và quy định này là một trong những giải pháp quan trọng trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phòng, chống và ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần rèn luyện nhân cách của cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị các cấp nói chung, các đồng chí lãnh đạo cấp cao nói riêng, củng cố, bồi đắp niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước.

Được xây dựng trên nguyên lý có xây, có chống và xây trước, chống sau, kết hợp giữa nói và làm, mà điểm cốt lõi là cán bộ giữ chức vụ càng cao thì càng phải gương mẫu. Theo tinh thần của các chỉ thị, nghị quyết và quy định nêu trên, cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu, ở mỗi cấp phải gương mẫu đi đầu và nêu gương học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; kết hợp sự gương mẫu đi đầu trong rèn luyện đạo đức cách mạng và nâng cao bản lĩnh chính trị của mỗi người, nhất quán giữa nói và làm, nói trước và gương mẫu làm trước trong mọi mặt công tác và cuộc sống đời thường tại mỗi cơ quan, địa phương, đơn vị hay nơi địa bàn cư trú. Việc nêu gương, phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu các ngành, các cấp, lãnh đạo cấp cao phải trở thành việc làm tự giác, thường xuyên, liên tục theo 8 nội dung “phải gương mẫu đi đầu thực hiện” và 8 nội dung “phải nghiêm khắc với bản thân và kiên quyết chống” của Quy định số 08-QĐi/TW.

Cụ thể, “đối với tự mình”, cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu; về mọi mặt, công tác và việc thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú để cấp dưới và Nhân dân noi theo; phải kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện vô cảm, quan liêu, cửa quyền, hách dịch và các hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà Nhân dân; kiên quyết chống tư tưởng cục bộ, bè phái và các biểu hiện cơ hội, thực dụng, mưu cầu lợi ích cá nhân, “lợi ích nhóm”. Quá trình thực hiện nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên phải gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, bắt đầu từ việc xây dựng nội dung, kế hoạch và cam kết thực hiện; thể hiện ở tác phong, tinh thần, thái độ, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; thể hiện trong quan hệ với cán bộ, đảng viên ở cơ quan, địa phương, đơn vị, với Nhân dân nơi địa bàn cư trú.

“Đối với người phải” được thể hiện bằng hành động nói đi đôi với làm trong mọi mặt công tác và quan hệ với Nhân dân; được thể hiện toàn diện trên các mặt tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong; tự phê bình và phê bình, thực hành dân chủ để xây dựng địa phương, cơ quan, đơn vị đoàn kết, thống nhất. Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, phải nêu gương tự phê bình và phê bình trên tinh thần trân trọng nhân cách con người, trân trọng đồng chí, đồng nghiệp. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong công việc cũng như khi tiến hành tự phê bình và phê bình, mỗi cán bộ, đảng viên “phải có tính đồng chí thương yêu lẫn nhau” và chú trọng “tinh thần nhân ái và lập trường cách mệnh” để thuyết phục, cảm hóa, tránh dùng lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Điều quan trọng của sự nêu gương chính là tự mình soi, tự mình sửa và luôn “phải lấy lòng thân ái, lấy lòng thành thật mà ráo riết phê bình đồng chí mình”, giúp đồng chí mình sửa chữa khuyết điểm và ngày càng tiến bộ.

“Làm việc phải” chính là nội dung nêu gương của cán bộ, đảng viên, thể hiện ở tinh thần trách nhiệm, tận tụy, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; làm việc có nguyên tắc, kỷ cương, có lý, có tình, không lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong công tác, nói đi đôi với làm, đã nói thì phải làm, kiên quyết chống thói nói một đằng làm một nẻo, hứa mà không làm; thường xuyên, nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát, v.v…

Việc triển khai thực hiện sự gương mẫu, nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị các cấp nói chung, các đồng chí lãnh đạo cấp cao nói riêng đã tạo sự chuyển biến quan trọng từ nhận thức đến hành động trong rèn luyện đạo đức cách mạng, phòng, chống và từng bước đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Qua đó, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của các cấp chính quyền… Tuy nhiên, sự gương mẫu, nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu nói riêng có nơi, có lúc vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.

Tính tự giác, gương mẫu đi đầu, vai trò nêu gương, thống nhất giữa nói và làm của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức có quyền chưa thật rõ nét, còn hình thức, chung chung, chưa tạo sự tâm phục, khẩu phục trong cán bộ, đảng viên và quần chúng Nhân dân.

Trước tình hình trên, trong nhóm các giải pháp quan trọng nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ, Đảng đặc biệt chú trọng đến vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, cụ thể sau:

Một là, các cấp ủy đảng, chính quyền, cần thấu triệt sâu sắc hơn những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nêu gương và học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục tinh thần nêu gương thực hành “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa XII để mỗi người tự soi, tự sửa, tự rèn luyện theo 3 chuẩn mực đạo đức cách mạng: “Tự mình phải”, “Đối với người phải”, “Làm việc phải”; coi đó là việc làm thường xuyên, liên tục, nề nếp, là nhu cầu tự thân của mỗi cán bộ, đảng viên.

Hai là, nâng cao trách nhiệm và phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên theo nguyên tắc “trên trước, dưới sau”, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu gương đạo đức cách mạng trong công việc lẫn đời tư, tại nơi công tác cũng như địa bàn cư trú. Thông qua đó, nâng cao tinh thần, ý thức chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong mỗi cán bộ, đảng viên và kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy của Đảng và Nhà nước những cán bộ, đảng viên suy thoái, tham ô, tham nhũng.

Ba là, tiếp tục phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và sinh hoạt thường kỳ của Chi bộ; trong đó, xây dựng những chuyên đề cụ thể về nêu gương thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; nêu gương về tự phê bình và phê bình; nêu gương trong đảm nhận việc khó với những nội dung thiết thực, để nâng cao chất lượng sinh hoạt Chi bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể. Thông qua đó, xây dựng tác phong, lề lối làm việc tận tụy phụng sự Nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên, phù hợp với đặc điểm, tình hình, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị và chức năng, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên./.

Views: 748

The post Chủ tịch Hồ Chí Minh – tấm gương tiêu biểu, mẫu mực về sự thống nhất giữa lời nói và việc làm appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Phát triển đội ngũ nhà giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/phat-trien-doi-ngu-nha-giao-theo-tu-tuong-ho-chi-minh.html Mon, 08 May 2023 02:48:13 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=20852 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Người luôn dành sự

The post Phát triển đội ngũ nhà giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Người luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho đội ngũ giáo viên và những người làm công tác giáo dục. Trong tư tưởng của Người, chúng ta luôn tìm thấy những trăn trở, những yêu cầu, những lời dặn dò và kỳ vọng đối với việc xây dựng đội ngũ những người thầy trong xã hội.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ giáo viên luôn giữ một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng, họ là người quyết định thành công công cuộc xây dựng và đổi mới nền giáo dục.Không có thầy giáo thì không có giáo dục”. Người còn khẳng định vai trò không thể thay thế của người giáo viên trong sứ mệnh đào tạo thế hệ trẻ. Trong bài phát biểu tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (10-1964), Bác đã nói: Người thầy giáo tốt – thầy giáo xứng đáng là thầy giáo – là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang. Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được. Vì vậy, nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang; ai có ý kiến không đúng về nghề thầy giáo thì phải sữa chữa”(1).

Với Người, sự nghiệp trồng người – giáo dục, đào tạo được xác định rõ là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, nhưng người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ là nhà giáo. Họ chính là lực lượng then chốt, quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo. Vì lẽ đó, Bác đã dày công xây dựng hệ thống quan điểm về những tiêu chuẩn, phẩm chất cần có của đội ngũ nhà giáo dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, bao gồm:

Thứ nhất, mỗi một thầy giáo cần phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nhân cách, trau dồi đạo đức cách mạng. Suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người đặc biệt chú trọng đến quá trình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của Đảng, của từng cán bộ, đảng viên, trong đó có đội ngũ những người làm nghề giáo. Đó không chỉ là tư tưởng xuyên suốt, mà còn là nỗi bận tâm đau đáu của Người. Cũng tại buổi nói chuyện tháng 10-1964, tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Bác đã nói chuyện với các thầy cô giáo, sinh viên và cán bộ, công nhân viên của trường: “Cô giáo, thầy giáo trong chế độ ta cần phải góp phần vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Phải có chí khí cao thượng, phải “tiên ưu hậu lạc” nghĩa là khó khăn thì phải chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ. Đây là đạo đức cách mạng”(2). Với Người, việc luôn trau dồi đạo đức cách mạng đã trở thành một nhiệm vụ tất yếu, tối quan trọng, là điều kiện “cần” và “đủ” mà tất cả thầy cô giáo đều phải hướng đến.

Thứ hai, nhà giáo phải luôn là tấm gương sáng ngời về tư tưởng, đạo đức và lối sống. Chúng ta đều biết, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người thầy – một nhà giáo dục vĩ đại, cả cuộc đời, Người đã giáo dục, đào tạo biết bao thế hệ cán bộ, những chiến sĩ ưu tú cho cách mạng… Sức mạnh giáo dục và cảm hóa của Người làm khuất phục cả những kẻ thù ở bên kia chiến tuyến, đưa họ trở về với chính nghĩa, với lương tri của con người. Để có được điều đó là do ở Bác hội tụ đầy đủ tri thức, bản lĩnh và một nhân cách cao đẹp về tư tưởng, đạo đức và lối sống, là một tấm gương cao cả để lớp lớp cán bộ học tập và noi theo. Bác thành công trong sự nghiệp giáo dục vĩ đại của mình là vì trước hết Bác là một con người chân chính, một người yêu nước, một người cộng sản, một nhà cách mạng, một nhà nhân văn đích thực, một con người xứng đáng nhất với danh hiệu con người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Người có tài mà không có đức thì là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Đối với đội ngũ nhà giáo, tài là sự am hiểu, vốn tri thức, vốn kinh nghiệm thực tiễn của người thầy, đức là tư cách, tình yêu thương, trách nhiệm của người thầy đối với nghề, với các em học sinh… Chính vì thế, Người nhắc các nhà giáo, dạy cũng như học đều phải biết chú trọng cả tài và đức. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ phụ trách thiếu nhi toàn miền Bắc (19-2-1959), Người nhấn mạnh: “Trẻ em hay bắt chước, cho nên thầy giáo, cán bộ phụ trách, v.v., phải gương mẫu từ lời nói đến việc làm. Nếu các cô, các chú bảo: “Các em phải siêng làm” nhưng các cô, các chú lại đi ngủ, hoặc dạy “các em phải thật thà”, nhưng các cô, các chú lại nói sai, hay bảo “các em phải giữ vệ sinh chung”, nhưng các cô, các chú bẩn, như thế là không được. Dạy các cháu thì nói với các cháu chỉ là một phần, cái chính là phải cho các cháu nhìn thấy, cho nên những tấm gương thực tế là rất quan trọng. Muốn dạy cho trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô, các chú phải là người tốt”. Người dặn dò: “Học trò tốt hay xấu là do thầy giáo, cô giáo tốt hay xấu. Các cô, các chú phải nhận rõ trách nhiệm của mình”(3), vì vậy “thầy giáo phải gương mẫu, trực tiếp làm nhiệm vụ: Đào tạo những công dân tốt, những cán bộ tốt sau này, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội”(4).

Thứ bathầy cô giáo phải thật sự yêu nghề, gắn bó với nghề; tất cả vì học sinh thân yêu. Trong tư tưởng, Bác đặc biệt nhấn mạnh sự “yêu nghề” trong hoạt động giáo dục: “Thầy cũng như trò, cán bộ cũng như nhân viên, phải thật thà yêu nghề mình. Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản?”(5). Ngoài ra, Người đặc biệt chú trọng đến tinh thần trách nhiệm, dám đối mặt với khó khăn, thử thách, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ mà xã hội, Đảng và nhân dân giao cho các thầy, cô giáo. Người luôn căn dặn: “Thầy và trò phải luôn luôn nâng cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng đối với công nông, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho”(6). Đó là tinh thần trách nhiệm dành cho sự nghiệp giáo dục, mang tri thức tới cho các em học sinh, các thế hệ sinh viên; là nghĩa cử cao đẹp và sự dấn thân vì mục tiêu “trăm năm trồng người”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu nghề, yêu người là cơ sở để các thầy, cô yên tâm công tác, say mê, toàn tâm, toàn ý với công việc; biết vươn lên, nâng cao năng lực, đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp; nâng cao tinh thần trách nhiệm, yêu thương học sinh như con, em ruột của mình, không thiên tư, thiên vị. Chỉ như vậy, các thầy, cô giáo mới đi tới sự đoàn kết thực sự, chung lòng, dốc sức vì tương lai của con em ta, dân tộc ta. Người viết: yêu nghề, yêu trường thôi chưa đủ mà phải yêu chủ nghĩa xã hội bởi chủ nghĩa xã hội là mục tiêu mà dân tộc đang hướng tới. Khi thầy, cô giáo có tri thức, niềm tin và tình yêu thật sự vào chế độ mới thì đứng trên bục giảng họ mới có thể truyền lại được cho lớp lớp học trò niềm tin, tình yêu và góp sức mình vào xây dựng chế độ mới – chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, quá trình giáo dục mỗi thầy giáo, cô giáo cần đặc biệt chú trọng tới nội dung và phương pháp truyền thụ. Theo Bác, quá trình giáo dục có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tuy vậy Người đặc biệt chú trọng đến tác phong, tư duy, cách truyền đạt tri thức cho học trò, phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ. Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều.

Người nhấn mạnh: “Óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy sự học tập ở trong trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên, và tương lai của thanh niên tức là tương lai của nước nhà”(7). Chất lượng và hiệu quả giáo dục không phải ở chỗ học nhiều, học vẹt, học thuộc lòng từng câu, từng chữ, mà là giáo dục người học trở nên “những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”(8).

Người cũng khuyên rằng “chớ đặt những chương trình, kế hoạch mênh mông, đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được. Việc gì cũng cần phải thiết thực, nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành được hẳn hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm không được”(9).

Quán triệt quan điểm, tư tưởng của Người về vai trò của người thầy trong sự nghiệp giáo dục, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến giáo dục, đào tạo, luôn xác định là “quốc sách hàng đầu”, trở thành tư tưởng chỉ đạo mang tính chiến lược. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng đặt ra yêu cầu việc xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. Văn kiện Đại hội cũng xác định cần: “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người”(10), trong đó nhấn mạnh: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách và giải pháp để cái thiện mức sống, nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”(11).

Những quan điểm trên của Đảng chính là trở về với triết lý giáo dục của Người nhằm thực hiện thành công chiến lược trồng người – “những người hữu ích cho nước Việt Nam” như Bác Hồ kính yêu của chúng ta từng mong ước.

                                                                                                                                                                          Nguồn:Tạp chí Xây dựng Đảng

Views: 0

The post Phát triển đội ngũ nhà giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Uy tín, hình ảnh người cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh – Vận dụng vào xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/uy-tin-hinh-anh-nguoi-can-bo-dang-vien-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-van-dung-vao-xay-dung-chinh-don-dang-hien-nay.html Mon, 08 May 2023 02:43:02 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=20849 Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh có vai trò, ý nghĩa đặc biệt

The post Uy tín, hình ảnh người cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh – Vận dụng vào xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng; trong đó, Người chú trọng, yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu về mọi mặt, thực hiện trách nhiệm nêu gương và có ý thức giữ gìn uy tín, hình ảnh của mình. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện phát triển mới đặt ra yêu cầu phải tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng đó của Người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm, chúc tết một số gia đình tại thôn Khe Cát, xã Minh Thành, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh ngày mùng 1 tết Ất Tỵ 1965_Ảnh:  TTXVN

anh tin bai

Uy tín, hình ảnh người cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Nhằm chuẩn bị những điều kiện cần thiết, tiến tới thành lập đảng cách mạng chân chính, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh tiến hành lựa chọn những thanh niên ưu tú để tổ chức đào tạo, huấn luyện chính trị (vào những năm 1925 – 1927, tại Quảng Châu, Trung Quốc). Theo Người, chỉ những người có đủ phẩm chất, trí tuệ thì mới có thể tiếp nhận được giá trị lý luận, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, quan điểm, đường lối chính trị và phương pháp cách mạng đúng đắn, trung thành, tận tụy truyền bá lý luận trong phong trào quần chúng, xây dựng, phát triển tổ chức đảng và thực hiện được vai trò lãnh đạo của Đảng. Tập hợp những cá nhân được giáo dục, huấn luyện bài bản thì mới có thể hình thành tổ chức đảng cách mạng và sau khi có tổ chức, lại phải không ngừng nâng cao trình độ, năng lực và phẩm chất cần có của tổ chức cũng như của mỗi người cán bộ, đảng viên để dẫn dắt phong trào cách mạng.

Với nhận thức khoa học về Đảng, trong tác phẩm “Đường Cách mệnh” (năm 1927), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đặt lên hàng đầu yêu cầu về Tư cách một người cách mệnh, gồm 23 điểm. Theo Người, mỗi người khi phấn đấu theo những điểm căn cốt đó sẽ góp phần làm nên bản chất cách mạng của Đảng; đồng thời, giúp cho Đảng có được đội ngũ cán bộ trung kiên, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì cách mạng, dân tộc và nhân dân. Trong 23 điểm nêu trên, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc định hình rõ tiêu chuẩn cụ thể của người cán bộ, đảng viên. Theo đó, người cách mạng, cán bộ, đảng viên tự mình phải cần kiệm, hòa mà không tư, cả quyết sửa lỗi mình, cẩn thận mà không nhút nhát, hay hỏi, nhẫn nại (chịu khó), hay nghiên cứu, xem xét, vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói thì phải làm, giữ chủ nghĩa cho vững, hy sinh, ít lòng tham muốn về vật chất, bí mật; với từng người thì khoan thứ; với đoàn thể thì nghiêm, có lòng bày vẽ cho người, trực mà không táo bạo, hay xem xét người; khi làm việc phải xem xét hoàn cảnh kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm, phục tùng đoàn thể (1).

Những phẩm chất, tư cách và yêu cầu đó có ảnh hưởng tích cực đối với sự lãnh đạo của Đảng, tỏ rõ uy tín, tấm gương của người cách mạng, có sức cảm hóa, tập hợp, đoàn kết nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền; vì thế, dù hoàn cảnh khó khăn đến đâu, người cán bộ cũng được quần chúng tin cậy, che chở và bảo vệ. Nhờ tấm gương, uy tín, đức hy sinh quên mình ấy mà hình ảnh cao đẹp của những người cộng sản có sức lan tỏa mạnh mẽ, tạo thành sức mạnh to lớn, góp phần đưa cách mạng đi đến thành công.

Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Nhà nước mới thể hiện sự kết tinh tiêu biểu cho tinh thần đoàn kết, hòa hợp dân tộc, nhân văn, nhân đạo cao cả; nhiều nhân sĩ, trí thức không phải đảng viên cộng sản được mời tham gia Chính phủ. Những người trong chính quyền của chế độ cũ được đối xử tốt, nhiều người đã tham gia chính quyền cách mạng; đặc biệt, cựu Hoàng đế Bảo Đại được mời làm Cố vấn tối cao của Chính phủ. Nhà nước cũng thực hiện ngay chính sách “tín ngưỡng tự do”, tạo điều kiện để các tôn giáo hành đạo; thực hiện các quyền dân chủ, chống nạn đói, “giặc dốt”, bảo đảm ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, Chính phủ là công bộc của dân, phục vụ nhân dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh; tập trung thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc, vừa chống xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc, vừa xây dựng chế độ xã hội mới.

Với sự nghiệp vẻ vang, mới mẻ và bộ máy chính quyền cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa chăm lo xây dựng bộ máy nhà nước và chính quyền các cấp, vừa đặc biệt chú trọng rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, là những người trực tiếp điều hành và quản lý bộ máy nhà nước cách mạng kiểu mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong những năm tháng đầu tiên của chính quyền cách mạng, phần lớn cán bộ nắm bộ máy chính quyền và nhân viên nhà nước đều tận tụy, nỗ lực khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng trong thực tiễn thực thi quyền lực đã có một số cán bộ “ngông nghênh, cậy thế, cậy quyền”, ức hiếp dân. Chính vì vậy, trên báo Cứu quốc số 65, ngày 12-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh có đề cập, phân tích vấn đề này trong bài viết “Sao cho được lòng dân?”. Người thẳng thắn nêu rõ thực trạng là ở một số ủy ban nhân dân “tiếng phàn nàn oán thán nhiều hơn tiếng người khen”(2); “Những Ủy ban đó không những không được dân yêu, còn bị dân khinh, dân ghét”(3). Người chỉ dẫn: “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”(4).

Những hành vi không đúng mực của một số cán bộ chính quyền đã ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín, làm xấu đi hình ảnh của bộ máy chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm các chức vụ, quyền hạn. Hiện tượng lạm quyền, lộng quyền và các thói xấu khác ở một số cán bộ đã khiến cho niềm tin của nhân dân bị suy giảm. Để kịp thời khắc phục tình trạng này, ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh có “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”; trong đó, chỉ ra những lầm lỗi rất nặng nề của một số người trong bộ máy chính quyền, như trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo, cử chỉ lúc nào cũng lên mặt “quan cách mạng”. Những hành vi tiêu cực đó “làm mất lòng tin cậy của dân, sẽ hại đến oai tín của Chính phủ”(5); do vậy, Chính phủ phải kiên quyết khắc phục, loại bỏ những sai phạm, hình ảnh xấu đó của một số cán bộ, đảng viên. Người nêu rõ: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung”(6).

Uy tín và hình ảnh tốt đẹp của người cán bộ phải xuất phát từ sự tận tụy, hết lòng, hết sức vì việc công, “dĩ công vi thượng”, không tơ hào, vun vén cho lợi ích bản thân và gia đình mình, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không quan liêu, xa cách và hống hách với dân, luôn khiêm nhường, giản dị trong cuộc sống. Muốn vậy, Đảng, chính quyền phải ra sức giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, phép nước; đồng thời, mỗi người phải có ý thức tự rèn luyện, tự tu dưỡng thường xuyên, liên tục. Ở đây, việc tu thân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nhắc nhở chính bản thân mình: “Gian nan rèn luyện mới thành công”.

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (tháng 10-1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày toàn diện, sâu sắc về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền. Người nêu ra 12 điều về tư cách của Đảng chân chính cách mạng và khẳng định:

Muốn cho Đảng được vững bền
Mười hai điều đó chớ quên điều nào”(7).

Đó là sự tổng kết sâu sắc của Người về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm sáng rõ nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về công cuộc xây dựng đảng cộng sản phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam; trong đó, Người đặc biệt nhấn mạnh bản chất cách mạng, mục tiêu, nhiệm vụ, tính tiên phong, các nguyên tắc hoạt động, đường lối, kỷ luật của Đảng và những yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Những nội dung đó đều trực tiếp đặt ra nhiệm vụ, bổn phận của đảng viên và cán bộ trước Đảng và dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ bản chất, lý tưởng của Đảng mà mỗi người đều phải ghi nhớ, thấm nhuần để phấn đấu: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(8).

Về bổn phận, trách nhiệm và tư cách của đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, phải trọng lợi ích của Đảng hơn hết và chú trọng rèn luyện đạo đức cách mạng theo các yêu cầu: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”(9). Cán bộ, đảng viên phải giữ nghiêm kỷ luật; có ý thức sửa chữa các khuyết điểm, sai lầm có nguồn gốc từ chủ nghĩa cá nhân, như tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, hẹp hòi, địa phương và các căn bệnh khác, như chủ quan, cẩu thả, hình thức, ích kỷ, xa quần chúng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một khi cán bộ, đảng viên nào mắc vào các căn bệnh đó thì đều trực tiếp gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, sức mạnh và sự lãnh đạo của Đảng. “Những tật bệnh đó khiến cho Đảng xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách không thi hành được triệt để, Đảng xa rời dân chúng”(10).

Đội ngũ cán bộ, đảng viên có vị trí, vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đó là lý do vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục, đào tạo, huấn luyện cán bộ; coi cán bộ là cái gốc của mọi công việc, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. “Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”(11).

Hình ảnh, uy tín của mỗi cán bộ, đảng viên góp phần làm nên uy tín, thanh danh của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, uy tín, hình ảnh của đảng viên, cán bộ trở nên sâu đậm trong lòng dân chúng chính là bởi những hành động, việc làm cao đẹp của họ. Người đã khái quát trách nhiệm, bổn phận của cán bộ, đảng viên trên những phương diện chủ yếu: Suốt đời tranh đấu cho dân tộc, cho Tổ quốc; đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết, trước hết; hết sức giữ kỷ luật và giữ bí mật của Đảng; cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc; cố gắng học tập chính trị, quân sự, văn hóa; phải gần gũi quần chúng, học hỏi quần chúng, cũng như phải lãnh đạo quần chúng. Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc(12).

Trong bản Di chúc lịch sử (năm 1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình; phải thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(13).

Nhân dịp tết Nguyên đán Quý Mão 2023 và kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930 – 3-2-2023), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dâng hương tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Nhà 67 trong Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Phủ Chủ tịch_Ảnh: TTXVN

anh tin bai

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về uy tín, hình ảnh người cán bộ, đảng viên vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

Quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung và xây dựng hình ảnh, uy tín người cán bộ, đảng viên nói riêng trong điều kiện hiện nay, Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) chủ trương tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; giải quyết đúng đắn các mối quan hệ: Giữa xây dựng Đảng với xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị; xây dựng với chỉnh đốn Đảng, kết hợp “xây” và “chống”, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, chống tham nhũng, tiêu cực; giữa xây dựng với bảo vệ Đảng, chú trọng bảo vệ Cương lĩnh, đường lối, nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ tổ chức đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu, coi công tác cán bộ là “then chốt của then chốt”; thắt chặt mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tổng kết quá trình xây dựng Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi mới, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn mới, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh những nhiệm vụ trọng tâm và các giải pháp đột phá trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ba nhiệm vụ trọng tâm là: (1) Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh và thực hiện các quy định về trách nhiệm nêu gương. (2) Đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. (3) Tiếp tục đổi mới, kiện toàn và từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”(14). Đại hội cũng chỉ ra “Ba giải pháp đột phá là: (1) Tiếp tục hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, nhất là công tác tổ chức, cán bộ. (2) Phát huy dân chủ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường đổi mới sáng tạo trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. (3) Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quyền lực”(15).

Những nhiệm vụ trọng tâm và các giải pháp đột phá mà Đại hội XIII của Đảng nêu ra đều hướng tới vấn đề then chốt trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công tác cán bộ, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ uy tín, năng lực, ngang tầm nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ được đề cập ở đây bao gồm cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị các cấp, trong đó Đảng ta đặc biệt chú trọng tới vai trò của người đứng đầu; bên cạnh đó là cán bộ quản lý các doanh nghiệp nhà nước; cán bộ khoa học; cán bộ lực lượng vũ trang (lãnh đạo, chỉ huy); đội ngũ công chức, viên chức. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ hiện nay đều được đào tạo cơ bản từ hệ thống giáo dục quốc dân ở rất nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau, đều trưởng thành từ thực tiễn công tác, được tuyển chọn, bổ nhiệm theo chiến lược cán bộ của Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, cán bộ trong hệ thống chính trị là những người được Đảng giáo dục, phân công đảm trách những chức vụ từ Trung ương tới cơ sở và có trách nhiệm vận hành hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vì sự phát triển, phồn vinh của đất nước, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân.

Thực tế cho thấy, cán bộ, đảng viên làm nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý tốt, giỏi có vai trò quyết định đến sự phát triển của từng địa phương, từng lĩnh vực hoạt động và phạm vi phụ trách. Nếu cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, mà yếu kém thì kết quả lãnh đạo, quản lý cũng sẽ kém, trì trệ, ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, đến uy tín của Đảng và niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và chế độ. Lựa chọn được cán bộ tốt sẽ góp phần đưa đất nước, địa phương, ngành, lĩnh vực đó phát triển; còn cán bộ kém sẽ dẫn đến không thành công, suy thoái, tham nhũng, tiêu cực. Uy tín, hình ảnh tốt đẹp của cán bộ lãnh đạo, quản lý bao giờ cũng là kết quả phản ánh sự phát triển và đổi mới sáng tạo. Ở đây, cần nắm vững quan điểm của Đảng, công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu là nhiệm vụ then chốt trong xây dựng Đảng và có vai trò, ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển đất nước.

Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng yêu cầu thực tiễn, bảo đảm sự phát triển thực chất cũng có nghĩa là thực hiện tốt nhất mục tiêu, nhiệm vụ chính trị đặt ra. Điều đó đương nhiên phải gắn liền với hoàn thiện tổ chức bộ máy, xác định chức năng, nhiệm vụ rõ ràng và có cơ chế vận hành thông suốt. Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng (tháng 10-2021) nêu rõ: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu gắn với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”(16); trong đó, “Bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, quán triệt sâu sắc vai trò của công tác cán bộ là “then chốt của then chốt”, có ý nghĩa quyết định mọi thành công của cách mạng nước ta cả trước mắt và lâu dài”(17).

Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII nhấn mạnh, công tác cán bộ phải gắn liền với thực hiện chủ trương của Đảng về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, giữ vững vị thế cầm quyền của Đảng, bảo đảm vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, sự hoạt động đồng bộ của cả hệ thống chính trị. Theo đó, việc củng cố, giữ gìn uy tín, hình ảnh của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn trong toàn Đảng, trong cả hệ thống chính trị và toàn dân, toàn xã hội.

Uy tín, hình ảnh của đội ngũ cán bộ, đảng viên phải được xây dựng dựa trên trình độ trí tuệ, năng lực thực hiện sự lãnh đạo, quản lý, phẩm hạnh, đạo đức của người cộng sản và phong cách khoa học, dân chủ, tình thương yêu đồng chí, đồng bào. Do vậy, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII nhấn mạnh đến nhiệm vụ tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Dù ở bất kỳ vị trí nào, người cán bộ cũng phải luôn ý thức đầy đủ về trách nhiệm và nghĩa vụ, thật sự chuyên nghiệp, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm, ủng hộ.

Khi người cán bộ, đảng viên có được uy tín trong Đảng và trong nhân dân, được đồng chí, đồng bào quý trọng thì đó là niềm hạnh phúc, tự hào rất to lớn. Uy tín đó đến từ sự hết lòng, hết sức vì công việc, luôn luôn đặt lợi ích của tập thể, lợi ích chung lên trên hết, trước hết; không vụ lợi, thu vén lợi ích cho cá nhân, gia đình, không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để mưu lợi riêng; gương mẫu trong mọi việc; luôn luôn đề cao trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân; thật sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, dám vượt qua khó khăn, thách thức, nỗ lực hành động vì lợi ích chung. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn luôn thực hiện phương châm “nói đi đôi với làm”, đã “nói thì phải làm”, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh, như Bác Hồ từng nhiều lần căn dặn. Người cán bộ, đảng viên xây dựng cho mình phong cách làm việc dân chủ, đoàn kết, thân thiện; tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, bàn bạc với dân trước khi đưa ra quyết định; có khuyết điểm hay việc gì chưa làm tốt thì sẵn sàng, chân thành nhận lỗi và quyết tâm sửa chữa.

Uy tín, hình ảnh đẹp của người cán bộ, đảng viên còn bắt nguồn từ lối sống trong sáng, khiêm tốn, giản dị, hòa đồng, luôn luôn vì mọi người, tình yêu thương, quý trọng đồng chí và nhân dân; không quan liêu, xa dân; nói không với tham nhũng, lãng phí, xa hoa, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Hạnh dục phương”, nghĩa là đạo đức, phẩm hạnh phải vuông vắn, ngay thẳng, không làm điều gì khuất tất, biết giữ danh giá của mình, cũng là bảo vệ thanh danh của Đảng. Cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ chủ chốt, phải là tấm gương sáng để quần chúng noi theo. Đảng ta chú trọng đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái để làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh và cũng là để làm cho cán bộ, đảng viên biết chủ động tránh xa cái xấu, tích cực rèn luyện nhân cách, danh dự của người cộng sản. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, danh dự mới là điều cao quý, thiêng liêng nhất đối với người cán bộ, đảng viên. Để có được điều thiêng liêng, cao quý đó, mỗi người phải thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện và thực hiện trách nhiệm nêu gương; cần đề cao “tinh thần “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa””(18). Nếu có khuyết điểm thì dũng cảm, nghiêm túc “tự soi”, “tự sửa” và đó cũng là biện pháp quan trọng để giữ gìn danh dự, uy tín của người cộng sản. Ngày 16-6-2022, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW, “Về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”. Nghị quyết nhấn mạnh việc giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, “tự soi”, “tự sửa”, đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên.

Cán bộ, đảng viên của Đảng dù ở vị trí nào, chức vụ nào cũng đều cần có ý thức giữ gìn uy tín, danh dự, hình ảnh của mình để xứng đáng là cán bộ lãnh đạo, quản lý và nhận được sự tin yêu của nhân dân. Có được điều đó là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu lâu dài của bản thân mỗi người cán bộ, đảng viên, đồng thời có sự quan tâm giúp đỡ của tổ chức trong công tác cán bộ và sự tín nhiệm của đồng chí, của nhân dân. Đến lượt mình, hình ảnh và uy tín lại là điều kiện cần thiết bảo đảm cho mỗi người thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ và cống hiến, góp phần vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. Nếu không chú trọng giữ gìn những giá trị cao quý đó, không kiểm soát được bản thân, sa vào chủ nghĩa cá nhân, để cho tham vọng quyền lực, ham muốn lợi ích vật chất chi phối sẽ dẫn tới tham nhũng, quan liêu, lãng phí, xa hoa và những tiêu cực khác, tự biến mình thành “quan cách mạng” như cách gọi của Bác Hồ; “những ông vua con” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc nhở, phê bình. Và như thế, người cán bộ sẽ tự làm xấu đi hình ảnh, mất hết uy tín, không thể làm tròn nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân tin tưởng, giao phó.

Cán bộ cấp chiến lược có vai trò quan trọng và ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp cách mạng của Đảng, xã hội và đất nước. Đội ngũ này góp phần hoạch định và trực tiếp lãnh đạo thực hiện những vấn đề chiến lược của cách mạng. Uy tín cao và hình ảnh đẹp của cán bộ cấp chiến lược là niềm tự hào của Đảng. Tuy nhiên, nếu cán bộ nào mắc sai phạm thì đều gây tác động xấu trong Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân; vì vậy, cán bộ cấp chiến lược lại càng phải đặc biệt chú trọng giữ gìn uy tín và danh dự của mình. Đối với cán bộ, đảng viên các cấp, uy tín và danh dự luôn luôn được nhân dân quan tâm, theo dõi. Trong công việc và cuộc sống, nhất là khi tiếp xúc trực tiếp với dân, người cán bộ cần phải giữ gìn hình ảnh và uy tín của mình để được nhân dân tin yêu, quý trọng, góp phần bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc đi đến thắng lợi./.

Nguồn:Tạp chí Cộng sản

Views: 0

The post Uy tín, hình ảnh người cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh – Vận dụng vào xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Để làm “đày tớ” của dân, người cán bộ phải làm gì? https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/de-lam-day-to-cua-dan-nguoi-can-bo-phai-lam-gi.html Mon, 08 May 2023 01:56:25 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=20820 Cả cuộc đời Bác Hồ đau đáu một chữ Dân. Xét đến cùng Người đi tìm đường cứu nước cũng

The post Để làm “đày tớ” của dân, người cán bộ phải làm gì? appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>

Cả cuộc đời Bác Hồ đau đáu một chữ Dân. Xét đến cùng Người đi tìm đường cứu nước cũng là đi tìm hạnh phúc cho nhân dân. Bác dạy người cán bộ phải làm “đày tớ” cho dân. Muốn vậy, phải làm gì? (*).

Bác Hồ với đồng bào các dân tộc. (Tranh: Đặng Nam/Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam)

Trên báo Le Paria số 4, ngày 1/7/1922, trong nguyên bản tiếng Pháp bài báo Thù ghét chủng tộc tác giả dùng hai chữ “con gái” bằng tiếng Việt (1). Trên báo L’Humanité ngày 17/8/1922, trong nguyên bản bài Dưới sự bảo hộ của… các chữ “nhà quê”, “Quan lớn”, “lính lệ” viết bằng tiếng Việt (2). Trong truyện Vi hành chữ “dân” viết bằng tiếng Việt. Đặc biệt hai chữ “nhà quê” được tác giả đều viết bằng tiếng Việt trong các văn bản tiếng Pháp. Không phải là trong tiếng Pháp không có từ tương ứng mà tác giả có dụng ý hẳn hoi. Có thể là từ ấy quen với người Pháp ở An Nam, ví dụ hai chữ “con gái” thường xuất hiện trong các bài báo tiếng Pháp là do người Pháp nuôi những thiếu nữ người Việt vừa để hầu hạ vừa làm trò chơi, họ gọi những người này bằng âm tiếng Việt. Hai chữ “nhà quê” thì mang sắc thái biểu cảm rõ ràng, trong văn cảnh cụ thể thì có thể đó là sắc thái mỉa mai những tên thực dân khinh thường dân An Nam thuộc địa hoặc có thể là tâm trạng xót xa của người viết trước cảnh đồng bào mình bị bóc lột tàn tệ… Sau này khi là Chủ tịch Nước Bác nhắc cán bộ: “Các chú nên nhớ rằng Bác làm Chủ tịch, Chủ tịch cũng là đầy tớ của nhân dân, phải phục vụ nhân dân vô điều kiện” (3).

Đối với nhân dân nói chung Người gọi bằng hai chữ “đồng bào” thân thiết, trong giao tiếp bao giờ Người cũng nhất quán với nguyên tắc là người trong một nhà: “Thưa đồng bào thân mến. Sáng nay, một đồng chí cán bộ mời tôi đi “ra mắt cử tri”. Tôi trả lời: đã bao nhiêu năm lòng tôi luôn ở cạnh đồng bào và tôi tin rằng lòng đồng bào cũng luôn luôn ở cạnh tôi. Xa lạ gì mà phải ra mắt?” (4). Thật chân tình gần gũi và ân nghĩa biết bao. Nguyên tắc trong giao tiếp của Người với đồng chí luôn là nguyên tắc song hành vừa là tình cảm trong nhà vừa là công việc chung, việc quốc gia.

Tuy là Chủ tịch Nước nhưng khi tiếp xúc với mọi người thì không ai nhận thấy Bác là nhà lãnh đạo, mà đó là một con người đích thực, dân giã, hòa đồng. Không hề có một khoảng cách với người dân, đấy là một phẩm chất của nghệ sĩ đích thực, vì nghệ sĩ bao giờ cũng ở giữa lòng dân. Nhà thơ Nông Quốc Chấn kể, tháng 2/1951 Bác đến Bắc Kạn. Mấy hàng dây chăng ngang dọc trước lễ đài sắp đứt vì đồng bào chen lấn xem Bác. Bác nói với bảo vệ: “Các chú dỡ hàng dây ngăn này đi!”. Miệng nói tay làm, Bác nhổ hai cọc trước mặt, quần chúng liền tiến vào sát Bác” (5). Ngày 6/1/1946 Bác về thăm làng An Thái (phường Bưởi – Hà Nội). Một cụ già mặc áo nâu, lưng còng, tóc bạc phơ, tay chống gậy tre lập cập từ ngõ trong ra. Thấy Bác, cụ xúc động làm rơi chiếc gậy xuống đường. Thấy vậy Bác Hồ cúi xuống cầm chiếc gậy ân cần đưa tận tay cụ” (6). Thấy lao công quét rác suốt đêm, Bác ra nước ngoài xin một giống cây mà Bác gọi là “cây xanh bốn mùa”. Về nước Bác trao gói giống cho người phục vụ và dặn “Đây là loài cây mà mùa đông ít rụng lá. Chú trồng thử xem. Nếu chịu được khí hậu nước ta và xanh tốt thì sau này đem trồng dọc các phố, mùa đông vừa có cây xanh, vừa đỡ vất vả cho người lao công quét đường” (7). Tình thương người, tình yêu nhân loại cần lao luôn là bệ phóng để cho tâm hồn nghệ sĩ thăng hoa, cất cánh; luôn là chất men nồng để chưng cất thành thứ rượu nghệ thuật tinh khiết, đậm đà.

Đối với dân chúng Pháp, Mỹ và binh lính Pháp, Mỹ vì phải nghe lệnh bọn thực dân đế quốc mà phải cầm súng đi xâm lược, Người gọi họ là “các bạn”: “Dân chúng Pháp… Chúng tôi yêu chuộng các bạn, và muốn thành thực hợp tác với các bạn trong khối Liên hiệp Pháp…

Binh lính Pháp… Giữa các bạn và chúng tôi, không có thù ghét gì cả…”(8).

NGƯỜI CÁCH MẠNG PHẢI LÀM “ĐÀY TỚ” CHO DÂN

Trước hết phải gần dân. Ngày 21/7/1956, nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khoá I, Trường Đại học nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh lấy cách ngôn của đạo Khổng, coi đó là “hạt nhân” của đạo đức cách mạng: “Những điều các bạn nghiên cứu được ở đây có thể ví như một hạt nhân bé nhỏ. Sau này, các bạn sẽ tiếp tục săn sóc, vun xới, làm cho hạt nhân ấy mọc thành cây và dần dần nở hoa, kết quả.

Theo ý riêng của tôi, thì hạt nhân ấy có thể tóm tắt trong 11 chữ: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân”. Nói tóm tắt, minh minh đức tức là chính tâm. Thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết” (9).

Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại ý ấy, gắn cách ngôn này với mục đích vì dân của Đảng ta: “Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Lúc khổ sở, khó khăn thì đảng viên ta đi trước, khi sướng thì đảng viên ta hưởng sau… Chắc các đồng chí đều hiểu câu: “tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”, chớ không phải: “Tiên thiên hạ chi lạc nhi lạc, hậu thiên hạ chi ưu nhi ưu” (10). Người nhắc nhở cán bộ qua những hình tượng cụ thể nhất: “Bất kỳ ở địa vị nào, làm công tác gì, chúng ta đều là đày tớ của nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân” (11).

Câu: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”, có nghĩa là lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ là câu của Phạm Trọng Yêm đời Tống đánh giá về Đỗ Phủ, được người đời sau coi đó là một phẩm chất của người quân tử. Như vậy, đối với Hồ Chí Minh, phẩm chất người cách mạng không đồng nhất nhưng thống nhất với quan niệm vị tha của đạo Khổng Mạnh.

Phải thương dân. Mở đầu Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã tuyên bố đường lối chính nghĩa “yên dân”: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Hồ Chí Minh tiếp thu đạo lý lớn lao ấy của Nguyễn Trãi: “Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề… là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ bị áp bức” (12). Từ quan niệm coi con người cao hơn tất cả mà nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh rất trọng hoà bình. Khi cả nư­ớc chuẩn bị phải b­ước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ tuyên bố với thế giới: “Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hoà bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh… Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách… Như­ng cuộc chiến tranh ấy, nếu ngư­ời ta buộc chúng tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm…” (13). Rõ ràng để trở thành nhà quân sự kiệt xuất là ngoài ý muốn của Ngư­ời, không hề muốn chiến tranh, như­ng cần thiết thì Người cùng cả dân tộc buộc phải cầm súng để giành độc lập, tự do để cho xứ sở này luôn tràn ngập ánh trăng hoà bình nh­ư trong những áng thơ của Ngư­ời vậy.

Khi bắt buộc phải tiến hành chiến tranh thì trong quan niệm của Người là làm sao để tránh được tổn thất cả cho ta cả cho địch. Từ quan niệm thực sự nhân văn này đã hình thành một chiến lược quân sự đánh địch “chủ trương bằng mưu, không dùng đến binh mà thắng được địch nhân”. Tư tưởng của Người ở ngày hôm nay vẫn đậm tính thời sự, không chỉ phù hợp với chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước của Đảng ta mà còn phù hợp với xu thế chung của bối cảnh toàn cầu hoá, con người ở mọi quốc gia hiểu biết nhau, gần gũi, thân thiện nhau hơn: “Phép dùng binh, giữ toàn nước địch mà ta thắng lợi là khéo nhất. Phá tan nước địch chỉ là khéo thứ hai. Giữ toàn quân đội địch mà ta thắng, là khéo nhất. Phá tan quân đội địch mà ta thắng, chỉ là khéo thứ hai.

Cho nên đánh hơn trăm trận, không phải là giỏi nhất. Giỏi nhất là không phải đánh mà quân địch phải thua.

Cho nên dùng binh giỏi nhất, là đánh bằng mưu. Thứ hai là đánh bằng ngoại giao. Thứ ba mới đánh bằng binh. Vây thành mà đánh là kém nhất” (14). Như vậy điểm quan trọng nhất trong phép dùng binh được Người đánh giá “khéo nhất”, “giỏi nhất” mà là “không phải đánh mà quân địch phải thua”. Ba mảnh đoạn này cấu trúc theo lối nhân quả, hai mảnh đoạn đầu thực ra chỉ là một nguyên nhân, sự có mặt của tất cả các câu trên để dồn vào ý câu cuối: Giỏi nhất là không phải đánh mà quân địch phải thua. Từ nguyên nhân ấy dẫn đến kết quả: “Cho nên dùng binh giỏi nhất, là đánh bằng mưu. Thứ hai là đánh bằng ngoại giao. Thứ ba mới đánh bằng binh”. Đánh bằng mưu là đánh như thế nào? Là kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông: Mưu phạt tâm công. Xét đến cùng như thế cũng là vì trọng dân, thương dân, không muốn dân đổ máu.

Phải tin dân. Nhà văn Đặng Thai Mai kể, năm 1946, khi nhóm chuẩn bị bản Dự thảo Hiến Pháp trình Bác, Bác hỏi xem có ai thắc mắc gì không, Đặng Thai Mai thưa: “Không biết chúng ta ban bố quyền bầu cử cho toàn dân có sớm quá không? Dân chúng ta hiện giờ người mù chữ còn tới 80, 90%”. Bác cười, giơ ngón tay chỉ vào tôi, nói: “Chú là người thảo hiến pháp mà không khéo lại phản động đấy, người cách mạng trước hết phải tin vào nhân dân” (15). Cuối năm 1963, đồng chí Dương Bá Nuôi, cán bộ Quân khu Trị-Thiên-Huế ra báo cáo tình hình cho Bác. Người hỏi đi bằng đường nào. Đồng chí nói đi đường núi, vì đi đường đồng bằng không an toàn. Bác ngạc nhiên: “Làm cách mạng mà đi trong dân lại không an toàn à? Đi trong dân mới ăn chắc!” (16). Đấy là quan điểm gần dân, thân dân, coi dân như ruột thịt. Thế cho nên chúng ta thấy Bác luôn yêu cầu nghệ sĩ phải luôn hướng về cuộc sống. Nhà văn Vũ Ngọc Phan thuật lại việc một lần đi thăm Triển lãm hội hoạ, Bác nói: “Các chú viết và vẽ thì phải chú ý đến công nông, phải viết về công nông, vẽ về công nông” (17). Ngày 1/7/1947 gửi thư cho thi sĩ Huyền Kiêu sau khi nhận được bản trường ca Hồ Chí Minh – tinh hoa dân tộc do nhà thơ gửi tặng, Bác Hồ viết: “Tôi đã nhận được bản trường ca của chú với nội dung cổ vũ đồng bào và chiến sỹ ta hăng hái kháng chiến… Thế là rất tốt” (18).

Bác Hồ có một niềm tin tuyệt đối vào dân vì tìm thấy ở họ những vẻ đẹp tuyệt vời, bền vững nhất. Ngày 1/5/1966, sau khi xem Đoàn văn công Quảng Bình biểu diễn, Bác nói với đồng chí Vũ Kỳ: “Nhân dân ta thật anh hùng. Chiến đấu ác liệt như thế, gian khổ như thế mà vẫn lạc quan ca hát. Một dân tộc như thế không một thế lực hung bạo nào có thể khuất phục được” (19).

Hai chữ “đày tớ” được Người dùng 65 lần (thống kê trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, 15 tập) là một từ ghép, chỉ người phục vụ vô điều kiện, tuyệt đối trung thành. Từ này thì ai cũng hiểu vì đã trở nên quen thuộc trong truyện cổ dân gian, trong tục ngữ ca dao và cả trong đời thường nên được tác giả sử dụng để nói về bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ của người cách mạng phục vụ vô điều kiện, tuyệt đối trung thành với nhân dân: “Dân tin cậy ai thì người ấy trúng cử và bổn phận những người trúng cử là làm đày tớ công cộng cho dân chứ không phải làm quan phát tài” (20). Bác mượn lời Lỗ Tấn để nhắc nhở cán bộ: “Nói về người cách mạng và đảng cách mạng, nhà đại văn hào Trung Quốc là ông Lỗ Tấn có câu thơ: “Hoành my lãnh đối thiên phu chỉ/ Phủ thủ cam vi nhũ tử ngưu”. Xin tạm dịch là: “Trợn mắt xem khinh nghìn lực sĩ/ Cúi đầu làm ngựa các nhi đồng”. “Nghìn lực sĩ” có nghĩa là những kẻ địch mạnh, thí dụ: lũ thực dân Pháp, bọn can thiệp Mỹ. Cũng có nghĩa là những sự khó khăn gian khổ. “Các nhi đồng” nghĩa là quần chúng nhân dân hiền lành, đông đảo. Cũng có nghĩa là những công việc ích quốc, lợi dân” (21). Trong Sửa đổi lối làm việc Bác Hồ vạch ra 6 vấn đề lớn mang tính cấp thiết, cấp bách với thời điểm ấy, nhưng vẫn nóng hổi tính thời sự với ngày hôm nay: I. Phê bình và sửa chữa; II. Mấy điều kinh nghiệm; III. Tư cách và đạo đức cách mạng; IV. Vấn đề cán bộ; V. Cách lãnh đạo; VI. Chống thói ba hoa. Trước hết là phải “phê bình” tìm ra “khuyết điểm rất to” để “thiết thực học tập, sửa chữa” với mục đích “tẩy sạch” khuyết điểm cho “công việc mới có thể tiến bộ”. Muốn vậy phải căn cứ, phải dựa vào thực tế nên tiếp theo tác giả đi sâu vào “II. Mấy điều kinh nghiệm”. Không hề là “kinh nghiệm chủ nghĩa” mà thực sự biện chứng, phải soi vào cuộc sống thực tế để thấy được những điều hay dở mà “sửa đổi”…

“Khuyết điểm rất to” được tác giả chỉ ra ở ngay hai dòng đầu tiên là “xao nhãng việc học tập”. Đây là nguyên nhân “mẹ” đẻ ra biết bao các khuyết điểm “con”, do vậy phải “đột phá” vào nó tìm cách làm để sửa, phải có “tổ chức”, có “thời gian học tập”, “tài liệu học tập”, “cách thức học tập”, “cách phê bình”, “kiểm tra”, “báo cáo”. Soi lý luận dạy học hiện đại của ngày hôm nay vào đó sẽ thấy đây là một mô hình khoa học đầy đủ, trọn vẹn nhất của một quá trình học tập không chỉ của một tổ chức, một tập thể, còn là của cá nhân.

Với Đảng thì ba khuyết điểm tức “ba chứng bệnh rất nguy hiểm” là bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, bệnh ba hoa. Mỗi bệnh đều được tác giả tìm ra nguyên nhân tức là cách “bắt bệnh” để có thuốc chữa, như bệnh chủ quan là do “kém lý luận hoặc khinh lý luận hoặc lý luận suông”. Vì lý luận chỉ phương hướng cho người đi nên cái nguy hiểm của căn bệnh này, là sẽ “lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Lý luận phải được áp dụng vào công việc còn lý luận chay, lý luận suông thì chẳng ý nghĩa gì cả.

Nguyễn Trãi yêu cầu “phàm người có chức vụ coi quân trị dân… đối dân tận hoà, bỏ thói tham ô, trừ tệ lười biếng; bè đảng riêng tây phải bỏ, thái độ cố phạm phải chừa, coi công việc của quốc gia làm công việc của mình, lấy điều lo của sinh dân làm điều lo của mình”. Bác Hồ, ngay từ những ngày đầu giải phóng đã đề ra nhiệm vụ “Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân” (22). Để xứng đáng là “người đầy tớ trung thành của nhân dân”, Bác Hồ yêu cầu cán bộ phải cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Người từng lên tiếng báo động: “Đề phòng hủ hoá… có người hủ hoá, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư. Thậm chí dùng pháp công để báo thù tư, làm cho dân oán…” (23). Người đề ra một tiêu chuẩn của người cách mạng là “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ”, học Nguyễn Trãi, Bác Hồ cũng dạy cán bộ “không lợi dụng danh nghĩa Uỷ ban để gây bè tìm cánh, đưa người “trong nhà trong họ” vào làm việc với mình” (24).

Học tập và làm theo tấm gương Bác Hồ thì cán bộ, đảng viên phải đi trước để làm tấm gương cho dân học và làm theo!/.

PGS. TS. NGUYỄN TUYẾT THU

(st)

Views: 374

The post Để làm “đày tớ” của dân, người cán bộ phải làm gì? appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Trong nghề nông, việc nào dễ nhất? https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/trong-nghe-nong-viec-nao-de-nhat.html Wed, 22 Mar 2023 08:53:38 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=20269 Hồi ở chiến khu Việt Bắc, các cơ quan đóng sâu ở trong rừng. Hàng tháng, mọi người phải đi

The post Trong nghề nông, việc nào dễ nhất? appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Hồi ở chiến khu Việt Bắc, các cơ quan đóng sâu ở trong rừng. Hàng tháng, mọi người phải đi lấy gạo về ăn, có khi mất cả ngày mới được một chuyến, không phải không có người ngại. Một lần, Bác hồ đi công tác qua một con suối, thấy rất đông cán bộ, trong đó có nhiều trí thức, trên đường đi lấy gạo về, đang ngồi nghỉ. Bác dừng chân hỏi:
– Đố các cô các chú, trong nghề nông, việc nào làm dễ nhất?
Mọi người cùng trả lời. Người bảo dễ nhất là gieo mạ, gặt hái; người thì cho là xay lúa, giã gạo.
Thấy mọi người thảo luận một lúc khá lâu nên một bác sĩ giục Bác:
– Thưa Bác, Bác chấm cho ai trả lời đúng ạ?
Bác cười:
– Theo Bác, việc làm dễ nhất là đi đến kho lấy gạo về nấu ăn…

Views: 1120

The post Trong nghề nông, việc nào dễ nhất? appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Không ai được vào đây https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/khong-ai-duoc-vao-day.html Wed, 14 Sep 2022 09:14:49 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=17464 Sách Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 10, do Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và

The post Không ai được vào đây appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Sách Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 10, do Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 1996, trang 334, có đoạn:

“Ngày 27 tháng 4 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe hai đồng chí: Lê Đức Anh và Chu Huy Mân báo cáo công việc, sau đó Người mời hai đồng chí ở lại ăn cơm với Người”.

Sáng hôm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi bỏ phiếu bầu Hội đồng nhân dân cấp huyện, xã… Người bỏ phiếu tại hòm phiếu số 6, đơn vị 1, tiểu khu 1, khu phố Ba Đình, Hà Nội, đặt tại Nhà thuyền Hồ Tây.

Khi Bác Hồ đến, trong Nhà thuyền đã có nhiều cử tri đang bỏ phiếu. Tổ bầu cử thấy Bác đến, ra hiệu để đồng bào tạm dừng và tạo “điều kiện” để Bác bỏ phiếu trước. Biết ý, Bác nói “sòng phẳng”:

– Ai đến trước, viết trước, Bác đến sau, Bác chờ. Bác chờ cho đến hàng mình, mới nhận phiếu và vào “buồng” phiếu.

Nhà báo Ma Cường chợt nghĩ thật là “hạnh phúc một đời của người làm báo”, “cơ hội ngàn năm có một” và vội giơ máy lên bấm, rất nhanh, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy tay che phiếu lại, nói với Ma Cường:

– Không ai được vào đây. Đây là phòng viết phiếu kín của cử tri. Phải bảo đảm tự do và bí mật cho công dân.

Nhà báo buông máy, nhưng vẫn thấy hạnh phúc.

Theo lời kể của các đồng chí ở gần Bác, trước khi đi bầu cử Bác không cho ai “gợi ý” cả, Bác nói:

– Ấy, đừng có “lãnh đạo” Bác nhé. Bác không biết Đảng ủy hướng dẫn danh sách để ai, xóa ai đâu nhé. Đưa lý lịch của những người ứng cử đây để Bác xem. Có chú nào dự buổi ứng cử viên trình bày ý kiến với cử tri, nói lại để Bác cân nhắc, Bác tự bầu.

5. Bát chè sẻ đôi

Đồng chí liên lạc đi công văn 10 giờ đêm mới đến. Bác gọi mang ra một bát, một thìa con. Rồi Bác đem bát chè đậu đen, đường phèn, mà anh em phục vụ vừa mang lên, sẻ một nửa cho đồng chí liên lạc.

– Cháu ăn đi.

Thấy đồng chí liên lạc ngần ngại, lại có tiếng đằng hắng bên ngoài, Bác giục:

– Ăn đi, Bác cùng ăn…

Cám ơn Bác, đồng chí liên lạc ra về. Ra khỏi nhà sàn, xuống sân, đồng chí cấp dưỡng bấm vào vai anh lính thông tin:

– Cậu chán quá. Cả ngày Bác có bát chè để bồi dưỡng làm đêm mà cậu lại ăn mất một nửa.

– Khổ quá, anh ơi! Em có sung sướng gì đâu. Thương Bác, em vừa ăn vừa rớt nước mắt, nhưng không ăn lại sợ Bác không vui, mà ăn thì biết cái chắc là các anh mắng mỏ rồi…

(Sưu tầm)

Views: 0

The post Không ai được vào đây appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Câu chuyện về 3 chiếc ba lô https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/cau-chuyen-ve-3-chiec-ba-lo.html Wed, 14 Sep 2022 09:11:49 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=17461 Trong những ngày sống ở Việt Bắc, mỗi lần Bác đi công tác, có hai đồng chí đi cùng. Vì

The post Câu chuyện về 3 chiếc ba lô appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Trong những ngày sống ở Việt Bắc, mỗi lần Bác đi công tác, có hai đồng chí đi cùng. Vì sợ Bác mệt, nên hai đồng chí định mang hộ ba lô cho Bác, nhưng Bác nói:

– Đi đường rừng, leo núi ai mà chẳng mệt, tập trung đồ vật cho một người mang đi thì người đó càng chóng mệt. Cứ phân ra mỗi người mang một ít.

Khi mọi thứ đã được phân ra cho vào 3 ba lô rồi, Bác còn hỏi thêm:

– Các chú đã chia đều rồi chứ?

Hai đồng chí trả lời:

– Thưa Bác, rồi ạ.

Ba người lên đường, qua một chặng, mọi người dừng chân, Bác đến chỗ đồng chí bên cạnh, xách chiếc ba lô lên.

– Tại sao ba lô của chú nặng mà Bác lại nhẹ?

Sau đó, Bác mở cả 3 chiếc ba lô ra xem thì thấy ba lô của Bác nhẹ nhất, chỉ có chăn, màn. Bác không đồng ý và nói:

– Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người.

Hai đồng chí kia lại phải san đều các thứ vào 3 chiếc ba lô.

(Sưu tầm)

Views: 1

The post Câu chuyện về 3 chiếc ba lô appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>