Tủ sách Hồ Chí Minh Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/tu-sach-ho-chi-minh Cổng Vào Tri Thức Fri, 14 Feb 2025 03:25:19 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/wp-content/uploads/2024/12/cropped-logotvbt-32x32.png Tủ sách Hồ Chí Minh Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/tu-sach-ho-chi-minh 32 32 Tác phẩm “Dân vận” với việc xây dựng Nhà nước dân chủ trong giai đoạn hiện nay https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tac-pham-dan-van-voi-viec-xay-dung-nha-nuoc-dan-chu-trong-giai-doan-hien-nay.html Fri, 14 Feb 2025 03:22:07 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31812  Cách đây 75 năm, ngày 15/10/1949, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn gay go,

The post Tác phẩm “Dân vận” với việc xây dựng Nhà nước dân chủ trong giai đoạn hiện nay appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>

 Cách đây 75 năm, ngày 15/10/1949, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn gay go, quyết liệt nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo “Dân vận” – một tác phẩm tuy ngắn gọn, nhưng chứa đựng quan điểm mang tầm chiến lược về vai trò của nhân dân, về Nhà nước dân chủ.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ TRONG TÁC PHẨM “DÂN VẬN”

Ngay phần mở đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày một quan niệm tổng quát về Dân chủ, về bản chất của Nhà nước dân chủ của dân, do dân, vì dân.

“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.

Ðoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(1).

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân luôn chiếm vị trí trung tâm. Kế thừa và phát triển tư tưởng “dân vi bang bản”, Hồ Chí Minh khẳng định: Dân là “gốc của nước”. Theo đó, Nhà nước “Không phải là thuộc riêng của giai cấp nào mà là của chung của toàn thể dân tộc, chỉ trừ có bọn tay sai của đế quốc Pháp – Nhật và những bọn phản quốc, bọn thù”(2). Với ý nghĩa đó, nhân dân thực sự là nền tảng cơ sở xã hội – giai cấp của Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.

Nước ta là nước dân chủ, cho nên “địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “quyền hành”, “trách nhiệm, lực lượng” là “của dân”, “đều ở nơi dân”. Bởi vậy, mô hình mà Hồ Chí Minh lựa chọn là mô hình Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – mô hình quá độ của đất nước vừa giành độc lập, đi theo con đường chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đó là Nhà nước dựa trên nền tảng dân chủ, thực thi dân chủ, mở rộng dân chủ, với nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc nhân dân. Nhân dân đứng ở vị trí trung tâm và bao hàm hai yếu tố: “dân là chủ” và “dân làm chủ”. Cơ quan nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực nhân dân, cán bộ công chức nhà nước chỉ là người được ủy quyền, được nhân dân trao quyền để gánh vác, giải quyết những công việc chung của đất nước.

Ngay sau khi giành được độc lập, để lập nên nhà nước của tất cả các tầng lớp nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẩn trương chỉ đạo tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu – sau này trong tác phẩm Thường thức chính trị, Người khẳng định “Đó là một cách rất hợp lý, để nhân dân lao động thực hành quyền thống trị của mình”(3).

Người cũng nhấn mạnh: “Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ… Nếu Chính phủ làm hại đến dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”(4)Dân là chủ thì Nhà nước và cán bộ công chức phải xác định rõ nhiệm vụ của mình là phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân… Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”(5).

Định hướng xuyên suốt việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước vì dân là phải luôn đặt lợi ích nhân dân lên hàng đầu. Từ luận điểm: “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(6), Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chúng ta phải làm sao thực hiện ngay: Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân được học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là ở đó, đi đến để dân ta xứng đáng với tự do, độc lập và giúp tự do độc lập”(7). Đó là những triết lý, nguyên tắc chỉ đạo trong suốt quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam.

Khi khẳng định vai trò chủ thể của nhân dân đối với Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở: “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(8). Người chỉ rõ, Nhà nước phải lập ra các thiết chế đảm bảo quyền làm chủ của người dân trên thực tế; đồng thời, nhân dân có quyền và nghĩa vụ phê bình, xây dựng, giúp đỡ Nhà nước. “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là: người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân”(9)Giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình là vai trò, trách nhiệm làm chủ của nhân dân; là phương thức trực tiếp và tốt nhất nhằm làm cho hoạt động của chính quyền nhân dân ngày một hiệu quả hơn nhưng phải theo đúng kỷ luật và làm đúng chính sách của Chính phủ để Chính phủ làm trọn phận sự mà nhân dân giao phó. Ý thức, năng lực và trách nhiệm “làm chủ” chính là “thước đo” sự giác ngộ chính trị của công dân cũng như trình độ dân chủ của xã hội.

Về quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, Hồ Chí Minh xác định: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường”(10). Nhà nước thực hiện vai trò người cầm lái, người tổ chức để nhân dân bằng trí tuệ và sức mạnh vốn có giải quyết các vấn đề và phục vụ lợi ích của chính mình. Trong tác phẩm Dân vận, Người đã chỉ rõ “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân; Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dânDo vậy, với vai trò điều hành, quản lý, tổ chức, Nhà nước phải tìm ra cơ chế thích hợp, tạo ra điều kiện thuận lợi để phát huy quyền làm chủ, nâng cao ý thức trách nhiệm và nguồn lực trong nhân dân để thực hiện thành công sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Đó là một giải pháp nhằm nâng cao tính năng động của Nhà nước dân chủ, làm cho Nhà nước phải luôn chú ý tới sự vận động của thực tiễn, mặt khác, thông qua quá trình tìm tòi đó và cùng với sự tham gia của nhân dân, Nhà nước tự hoàn thiện mình. Vì thế, Nhà nước gia tăng được sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân và ngày càng được củng cố để hoàn thành tốt hơn chức năng phục vụ nhân dân của mình.

Những quan điểm nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể chế hóa trong các bản Hiến pháp do Người làm Trưởng ban soạn thảo. Hiến pháp năm 1946 xác định: Nước Việt Nam là một nước Dân chủ Cộng hoà; Tất cả quyền bính trong nước là của của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo. Hiến pháp năm 1959 có các chế định cụ thể như: Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Trên tinh thần đó, từ Hiến pháp năm 1959 đã thể hiện rõ hơn cơ chế tập trung quyền lực vào Quốc hội với nguyên tắc hoạt động “tập trung dân chủ” của các cơ quan nhà nước; thể chế hoá mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân: “Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”.

Trong thực tiễn xây dựng chế độ mới, bằng cách tổ chức cho nhân dân tham gia xây dựng Nhà nước dân chủ, Hồ Chí Minh đã khơi dậy và nâng cao động lực tinh thần làm chủ đất nước của mọi người dân. Nhà nước dân chủ mới ngay sau khi được thiết lập đã phát động toàn dân tham gia thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Qua phong trào thực tiễn do nhân dân thực hiện trên các lĩnh vực đã khẳng định vị trí là chủ, làm chủ của mỗi người dân trong một quốc gia độc lập, đã tạo ra sức mạnh tổng hợp vô cùng to lớn đưa cách mạng Việt Nam vượt qua mọi hiểm nghèo để tiến lên.

 

VẬN DỤNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ XHCN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Quán triệt và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nhất quán chủ trương: dân chủ vừa là bản chất của thể chế nhà nước, vừa là cách thức tổ chức thực hành dân chủ; vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển. Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước dân chủ đã có những bước tiến quan trọng. Quốc hội có nhiều đổi mới trong hoạt động lập pháp, công tác bầu cử được cải tiến, tăng cường hơn về chất lượng và số lượng đại biểu chuyên trách; sự tham gia của nhân dân vào việc góp ý các dự án luật được thực hiện bài bản hơn… Chính phủ, các cơ quan Chính phủ được tổ chức, sắp xếp lại theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và ngày càng minh bạch hơn, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hướng tới sự hài lòng của người dân. Các cơ quan tư pháp từng bước chuyển theo yêu cầu thượng tôn pháp luật, kiện toàn tổ chức, bộ máy, khắc phục hạn chế, thiếu sót trong hoạt động tố tụng, xét xử. Quyền con người, quyền công dân tiếp tục được cụ thể hóa bằng hệ thống luật pháp và bảo đảm thực thi trên thực tế. Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện của người dân được quan tâm và bảo đảm. Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), các tổ chức chính trị – xã hội từng bước đổi mới, coi trọng vai trò phản biện xã hội, đại diện lợi ích của các hội viên, đoàn viên…

Tuy nhiên, bộ máy nhà nước hiện nay vẫn còn khá cồng kềnh, nhiều tầng nấc, phân công, phân quyền chưa đủ mạnh dẫn đến tình trạng thẩm quyền vừa bị phân mảnh, vừa có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Cơ chế “xin – cho” vẫn nặng nề. Vai trò của MTTQ và các tổ chức chính trị – xã hội có lúc, có nơi chưa được phát huy đầy đủ. Hệ thống pháp luật còn nhiều thiếu sót, việc thực thi pháp luật chưa nghiêm minh dẫn đến việc chưa phát huy cao nhất sức mạnh của pháp luật với tư cách là công cụ để nhân dân kiểm soát quyền lực và thực hiện quyền làm chủ của người dân, tham gia vào các hoạt động của bộ máy nhà nước. Việc giám sát, phản biện của nhân dân và các tổ chức, trách nhiệm giải trình của các cơ quan trong bộ máy nhà nước trong một số lĩnh vực còn mang tính hình thức, kém hiệu quả. Đặc biệt, do sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo dẫn đến sự méo mó, biến dạng một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, xâm phạm đến lợi ích chung…

Trong bối cảnh đó, theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để đáp ứng yêu cầu của xây dựng Nhà nước thật sự dân chủ trong giai đoạn hiện nay, cần chú ý đến những vấn đề sau:

Thứ nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước dân chủ và pháp quyền, trong đó cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đặc biệt, chú trọng hoàn thiện cơ chế của Đảng trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; các hiện tượng vi phạm dân chủ. Bảo đảm các tổ chức của Đảng và đảng viên gương mẫu, đi đầu trong thực hành dân chủ và tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, “mỗi đảng viên ở địa vị càng cao thì càng phải giữ đúng kỷ luật của đảng, càng phải làm gương dân chủ”(11); định hướng mọi chính sách và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, bồi đắp và thực hành năng lực làm chủ của nhân dân. Phát huy dân chủ phải gắn liền với nâng cao dân trí, bảo đảm dân quyền. Trong 5 bài học đúc rút từ 35 năm đổi mới, Đảng ta nêu bài học thứ hai là: trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Trong thời kỳ phát triển mới, bài học đó cần trở thành phương châm hành động, để nhân dân thật sự là chủ, có đầy đủ năng lực, quyền lợi và trách nhiệm của người làm chủ, để cùng “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(12). Đại hội XIII của Đảng đã nêu nhiệm vụ quan trọng là “cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”(13) với các vấn đề trọng tâm: an ninh xã hội, an ninh con người, xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh; nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, chính sách việc làm, thu nhập; phát huy dân chủ và nâng cao dân trí…

Thứ ba, tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động bộ máy Nhà nước theo hướng dân chủ và pháp quyền. Đổi mới tổ chức và hoạt động theo hướng chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, bảo đảm nguyên tắc pháp quyền trong thực hiện chức năng của Quốc hội; hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do cơ quan dân cử bầu hoặc phê chuẩn. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực; xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch; tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Đổi mới thể chế và thủ tục hành chính tập trung trước hết vào xoá bỏ những quy định mang nặng tính hành chính quan liêu, gây phiền hà, sách nhiễu cho doanh nghiệp và nhân dân, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, trong đó, “xây dựng các thiết chế tư pháp hiện đại, trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, dân chủ, nghiêm minh, tăng cường tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, ổn định”(14).

Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vừa “hồng” vừa “chuyên”, đây là “công việc gốc”; “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”(15); “có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(16). Đảng và Nhà nước cần chú trọng tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách, đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển. Thực hiện phương thức dân chủ trong lãnh đạo quản lý điều hành, khắc phục lối làm việc mệnh lệnh hành chính đơn thuần. Thực hiện nghiêm túc trách nhiệm giải trình và có cơ chế cụ thể quy định trách nhiệm của cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp trước nhân dân. Cùng với việc nâng cao chất lượng cán bộ, công chức phải kết hợp với việc định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém, thanh lọc những kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm. Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực thông qua hoàn thiện hệ thống pháp luật và đảm bảo tính nghiêm minh, thượng tôn pháp luật trong mọi hoạt động của bộ máy Nhà nước.

Thứ năm, phát huy vai trò của MTTQ và các tổ chức chính trị – xã hội trong việc xây dựng nền dân chủ XHCN. MTTQ và các tổ chức chính trị – xã hội phải lắng nghe đầy đủ, thấu đáo tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân, từ đó xem xét, xử lý, tháo gỡ những vướng mắc mà nhân dân kiến nghị, tạo điều kiện để nhân dân thực hành quyền dân chủ trên cơ sở, khuôn khổ pháp luật, pháp chế và bảo đảm kỷ cương xã hội. Với tư cách là những thiết chế để các tầng lớp nhân dân tham gia công việc của Nhà nước, quản lý, giám sát hoạt động của Nhà nước, MTTQ và các tổ chức cần tiếp tục đổi mới trên nhiều mặt theo hướng khắc phục tình trạng “hành chính hóa”, “nhà nước hóa” trong tổ chức và hoạt động.

Thứ sáu, tăng cường các hoạt động giám sát và phản biện xã hội, tạo dựng thói quen thảo luận, bày tỏ quan điểm, chính kiến của nhân dân về các vấn đề quan trọng của đất nước. Trong thực tế, để Luật Thực hiện dân chủ cơ sở được thực hiện nghiêm minh, trước hết, cần bảo đảm cơ chế công khai, minh bạch, mở rộng cơ hội tiếp cận thông tin cho các chủ thể giám sát và phản biện xã hội. Đồng thời, thiết lập cơ chế phối hợp giữa hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, cơ quan báo chí và nhân dân với hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng và hoạt động thanh tra, kiểm toán, điều tra, xét xử… của các cơ quan nhà nước. Từ cơ chế phối hợp đó, Đảng và Nhà nước hiểu rõ hơn tình hình thực tiễn để có những quyết sách đúng đắn, phù hợp nhất và tạo sự đồng thuận xã hội. Mặt khác, hoạt động thanh tra, kiểm toán, điều tra, xét xử… của Nhà nước mang tính quyền lực công với những chế tài xử lý nghiêm minh sẽ góp phần bảo đảm những kết quả giám sát và phản biện xã hội phát huy được giá trị trong thực tiễn.

Dân chủ là bản chất, là thước đo trình độ phát triển của tổ chức Nhà nước và của toàn xã hội. Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, chúng ta sẽ từng bước thực hiện được mục tiêu đề ra góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước dân chủ XHCN của dân, do dân, vì dân./.

(st)

Views: 4

The post Tác phẩm “Dân vận” với việc xây dựng Nhà nước dân chủ trong giai đoạn hiện nay appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
MỘT SỐ LỜI DẠY CỦA BÁC HỒ VỀ ĐẠO ĐỨC LỐI SỐNG https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/mot-so-loi-day-cua-bac-ho-ve-dao-duc-loi-song.html Fri, 14 Feb 2025 03:13:15 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31809 MỘT SỐ LỜI DẠY CỦA BÁC HỒ VỀ ĐẠO ĐỨC LỐI SỐNG – Đối với mình – Phải siêng nǎng,

The post MỘT SỐ LỜI DẠY CỦA BÁC HỒ VỀ ĐẠO ĐỨC LỐI SỐNG appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
MỘT SỐ LỜI DẠY CỦA BÁC HỒ VỀ ĐẠO ĐỨC LỐI SỐNG

– Đối với mình – Phải siêng nǎng, không được lười biếng, ai lười biếng không làm được việc. Phải tiết kiệm, không xa xỉ, vì xa xỉ hoá ra tham lam, nhất là đối với tiền bạc của đoàn thể phải rất phân minh.

Con đường giải phóng. Tháng 12 nǎm 1940.  Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh  

– Học cái tốt thì khó, ví như người ta leo núi, phải vất vả, khó nhọc mới lên đến đỉnh.

– Học cái xấu thì dễ, như ở trên đỉnh núi trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu.

– Mấy nǎm kháng chiến, các cô, các chú đã học được nhiều đức tính tốt. Về xuôi nhất là về thành thị, sẽ có nhiều người phức tạp, nhiều thứ quyến rũ mình vào thói xấu.

                              Bài nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ  trước khi vào tiếp quản Thủ đô.

                                          Ngày 5 tháng 9 nǎm 1954.

 – Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài  không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai

           Bài nói chuyện tại lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I. 

                                                Ngày 12 tháng 6 nǎm 1956

– Công trạng của cá nhân chủ yếu là nhờ tập thể mà có. Vì vậy người có công trạng không nên tự kiêu mà cần khiêm tốn. Khiêm tốn và rộng lượng, đó là hai đức tính mà người cách mạng nào cũng phải có.

          Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn trung, cao cấp của Bộ Quốc phòng  và các lớp trung cấp của các tổng cục. Tháng 5 nǎm 1957.

 

 – …Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc.

Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

Thiếu một mùa, thì không thành trời.

Thiếu một phương, thì không thành đất

Thiếu một đức, thì không thành người      

Cần với Kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người.

Cần mà không Kiệm, “thì làm chừng nào xào chừng ấy”. Cũng như một cái thùng không có đáy; nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không.

Kiệm mà không Cần, thì không tǎng thêm, không phát triển được. Mà vật gì đã không tiến tức phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không tiếp tục đổ thêm vào, lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần, cho đến khi khô kiệt.

Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn.

      Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý.

                                       Cần Kiệm Liêm Chính. Tháng 6 nǎm 1949.

 

– Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra đòi hỏi hưởng thụ, đãi ngộ. Người ta ai cũng muốn ǎn ngon mặc đẹp, nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc nhân dân ta còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ǎn ngon mặc đẹp, như vậy là không có đạo đức.

           Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn trung, cao cấp của Bộ Quốc phòng  và các lớp trung cấp của các tổng cục. Tháng 5 nǎm 1957.

… Kiên trì và nhẫn nại,

Không chịu lùi một phân,

Vật chất tuy đau khổ

Không nao núng tinh thần.

                                 Bốn tháng rồi.

                Nhật ký trong tù. Nǎm 1942-1943.

– Trong cuộc đấu tranh to lớn, lâu dài, gay go, ít nhiều đảng viên, ít nhiều nơi không tránh khỏi những khuyết điểm như: chủ quan, hẹp hòi, mạo hiểm, hủ hoá, xa quần chúng, chủ nghĩa địa phương, không giữ kỷ luật, làm việc luộm thuộm, tự kiêu, tự mãn.

– Dù đó là những chứng bệnh thành niên, nhưng từ nay, Đảng đòi hỏi các đảng viên phải kiên quyết tẩy cho kỳ sạch những bệnh ấy. Vì nếu không trị cho khỏi hết, thì nó có thể lây ra mà trở nên rất nguy hiểm cho Đảng.

                 Kiểm điểm công việc của Đảng. Tháng 1 nǎm 1949.
Tư liệu  Bảo tàng Hồ Chí Minh

  – Luôn luôn cầu tiến bộ. Không tiến bộ thì là ngừng lại. Trong khi mình ngừng lại thì người ta cứ tiến bộ. Kết quả là mình thoái bộ, lạc hậu.

Tiến bộ không giới hạn. Mình cố gắng tiến bộ, thì chắc tiến bộ mãi.
Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình.

                                Cần kiệm liêm chính. Tháng 6 nǎm 1949.

 – Thang thuốc chữa bệnh quan liêu:

+ Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết.

+ Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân.

+ Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.

+ Phải làm kiểu mẫu: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư.

                     Phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Báo Sự thật, số 140,
ngày 2 tháng 9 nǎm 1950.

 

–  Dao có mài, mới sắc.

  Vàng có thui, mới  trong.

Nước có lọc, mới sạch.

Người có tự phê bình, mới tiến bộ.

    Tự phê bình. Báo Nhân dân,

  số 9, ngày 20 tháng 5 nǎm 1951.

  – Phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng cách thật thà tự phê bình và thẳng thắn phê bình, nhất là phê bình từ dưới lênPhải kiên quyết chống cái thói “cả vú lấp miệng em”, ngǎn cản quần chúng phê bình.

Nhiệm vụ của chi bộ ở các cơ quan.

 Báo Nhân dân, số 176, từ ngày 6 đến 10-4-1954

(st)

Views: 5

The post MỘT SỐ LỜI DẠY CỦA BÁC HỒ VỀ ĐẠO ĐỨC LỐI SỐNG appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Cha con người thợ mộc tài hoa vinh dự được xây dựng Lăng Bác Hồ https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/cha-con-nguoi-tho-moc-tai-hoa-vinh-du-duoc-xay-dung-lang-bac-ho.html Fri, 20 Dec 2024 04:04:58 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31121 Trong quá trình công tác tại đơn vị, tôi có dịp về quê hương Gia Hòa, xã Nam Cường, huyện

The post Cha con người thợ mộc tài hoa vinh dự được xây dựng Lăng Bác Hồ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Trong quá trình công tác tại đơn vị, tôi có dịp về quê hương Gia Hòa, xã Nam Cường, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, cùng với các nhà làm phim tư liệu ghi lại hình ảnh của cha con người thợ mộc tài hoa đã có vinh dự được lựa chọn về xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1974. 

Người cha là cụ Nguyễn Ngọc Ao (nay đã mất) và người con là ông Nguyễn Minh Thiêm, khi cùng cha về Hà Nội xây dựng Lăng Bác, ông vừa tròn 17 tuổi và ông trở thành người thợ mộc trẻ tuổi nhất tham gia xây dựng Lăng Bác.

Ban phụ trách xây dựng Lăng Bác đón nhận gỗ quý của nhân dân miền Nam gửi tặng xây dựng Lăng Bác.
Nhớ lại thời gian khởi công xây dựng Công trình Lăng Bác, Trung ương  đã cho lựa chọn những người thợ tài hoa từ những vùng nổi tiếng về nghề thợ mộc như: Gia Hòa (Nam Định), Cao Đà (Hà Nam), Thái Yên (Hà Tĩnh) và Yên Thế (Bắc Giang)… về thi công những chi tiết bằng gỗ trong Lăng. Cụ Nguyễn Ngọc Ao, khi đó là Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã mộc Sơn Lâm, xã Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Hà cũ, kiêm Tổ trưởng Tổ Kỹ thuật, là người nức tiếng giỏi nghề. Hai cha con cụ đã được hợp tác xã bỏ phiếu tín nhiệm là những người có đạo đức, sức khỏe và lành nghề nhất để đi kiểm tra tay nghề “vòng sơ loại” của tỉnh Nam Hà.
Cha con cụ Nguyễn Ngọc Ao đã vượt qua tất cả các vòng tuyển lựa và được biên chế làm thành viên của đoàn thợ tỉnh Nam Hà (nay là Nam Định và Hà Nam). Cụ Nguyễn Ngọc Ao, khi đó đã 55 tuổi. Tuy tuổi cao, sức khỏe hạn chế nhưng xuất thân trong một gia đình có nghề mộc truyền thống và nổi tiếng cả vùng cùng với người con trai tuy tuổi trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm làm nghề, nhưng vốn thông minh, lại được ông nội và cha kèm cặp, truyền nghề ngay từ nhỏ nên hai cha con cụ Nguyễn Ngọc Ao, ngay từ đầu đã được cán bộ phụ trách và anh em đồng nghiệp yêu kính. Đặc biệt, khi làm các bộ cửa của Công trình Lăng, các nghệ nhân đã trổ tài trong một cuộc thi để chắt lọc những tinh hoa của ngành mộc cổ truyền dân tộc, làm nên một kiểu mộng cửa chắc nhất, bền nhất, đẹp nhất để kính dâng lên Bác. Đề tài “thi” làm một kiểu mộng cửa bằng gỗ trắc. Yêu cầu kiểu mộng này kết cấu từ bên trong, không có ke, không có chốt, đủ sức giữ thăng bằng tấm cửa nặng khi mỗi lần đóng, mở. Nếu mộng không chặt, không khỏe, cửa sẽ bị méo, vênh, khó di chuyển. Ba mươi lăm nghệ nhân “dự thi”, đã làm ra rất nhiều kiểu mộng, đại diện cho văn hóa của từng vùng, miền trong cả nước. Song kiểu mộng được nhiều người khen nhất, là kiểu mộng được cha con cụ Nguyễn Ngọc Ao sáng tạo. Đây là kiểu mộng mòi, trông bề ngoài có hình xiên góc như khung kính treo ảnh, nhưng kết cấu mộng bên trong, vừa lồng ngang, vừa thắt dọc; mộng đã vào là như khóa chặt trụ câu. Những đường vân, thớ gỗ ở hai bên má mộng vẫn có bước chuyển nối nhau, trông như một phiến gỗ, không nhìn thấy một khớp nối nào. Ban Phụ trách xây dựng Lăng đã phê duyệt kiểu mộng mòi do cha con cụ Nguyễn Ngọc Ao sáng tạo làm kiểu mộng chung cho tất cả cửa gỗ trong Công trình Lăng Bác. Khi bước vào thi công, cụ Nguyễn Ngọc Ao được bầu làm thợ cả, trực tiếp hướng dẫn, giám sát anh em thi công. Ông Nguyễn Minh Thiêm thành thạo cách làm mộng của cha, được giao đóng cửa chính. Những người thợ tài hoa đều ý thức được rằng phải sử dụng nguyên liệu gỗ một cách có ý nghĩa nhất, bởi đó đều là những loại gỗ quý như trắc, nụ, muồng, mun, đinh hương do đồng bào, chiến sĩ Nam Bộ, Tây Nguyên, Khu 5, Bình – Trị – Thiên khai thác đã vượt qua hàng nghìn cây số và cao hơn nữa đó chính là tấm lòng, tình cảm của nhân dân miền Nam đối với Bác Hồ kính yêu.
Sau hơn một năm miệt mài, dưới bàn tay của những người thợ mộc tài hoa, những bộ cánh cửa, bàn ghế, tay vịn cầu thang cùng trang thiết bị nội thất Công trình Lăng Bác đã được hoàn thành, bảo đảm yêu cầu về cấu trúc, thẩm mỹ theo đúng thiết kế. Đóng góp của các nghệ nhân nghề mộc, trong đó có cha con cụ Nguyễn Ngọc Ao và ông Nguyễn Minh Thiêm đã góp phần đảm bảo để Công trình Lăng Bác hoàn thành đúng thời gian, kịp khánh thành vào dịp Quốc khánh 02-9-1975.
Hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Lăng Bác, cụ Nguyễn Ngọc Ao đã vinh dự được Phó Thủ tướng Đỗ Mười, Trưởng ban Ban Phụ trách xây dựng Lăng Bác tặng Bằng khen. Tấm Bằng khen ghi nhận thành tích của cụ vẫn được gia đình treo tại vị trí trân trọng nhất của phòng khách, cùng với Huân, Huy chương và các phần thưởng cao quý khác mà cụ đã được các cấp khen thưởng trong quá trình công tác.
Năm 2020, kỷ niệm 45 năm Ngày khánh thành Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi viết lại những kỷ niệm về tấm gương của cha con cụ Nguyễn Ngọc Ao nói riêng và những nghệ nhân tài hoa trong nghề mộc của đất nước đã đóng góp trí tuệ, tài năng để cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân xây dựng lên Ngôi nhà vĩnh cửu của Chủ tịch Hồ Chí Minh – người Anh hùng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất. Đây cũng là dịp để mỗi chúng ta cùng nhau ôn lại những kỷ niệm của đồng bào, đồng chí và nhân dân cả nước đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và quyết tâm to lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong việc xây Lăng Chủ tịch Hồ chí Minh.
Xin kính cẩn nghiêng mình và tri ân công lao của các cụ, các ông, những người thợ tài hoa của đất nước.

 

Trung tướng, PGS, TS. Đặng Nam Điền,

Nguyên Chính ủy Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Theo https://www.bqllang.gov.vn

Views: 3

The post Cha con người thợ mộc tài hoa vinh dự được xây dựng Lăng Bác Hồ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Tấm áo Bạch Liên của Bác Hồ https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tam-ao-bach-lien-cua-bac-ho.html Fri, 20 Dec 2024 03:58:21 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31115 Bác Hồ được tặng một tấm áo quý, nhưng Người không mặc, mà gửi tặng Ủy ban Hành chính Liên

The post Tấm áo Bạch Liên của Bác Hồ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Bác Hồ được tặng một tấm áo quý, nhưng Người không mặc, mà gửi tặng Ủy ban Hành chính Liên khu Bốn để bán lấy tiền ủng hộ chiến sỹ mặt trận Bình Trị Thiên.

Năm 1948, Hội Phật giáo Việt Nam tặng Bác Hồ một tấm áo quý. Đó là một tấm áo may bằng lụa Hà Đông, màu mỡ gà nhạt, hai ve áo được thêu hai đóa hoa sen trắng, rất tinh tế, nên được gọi là áo Bạch Liên. Lúc bấy giờ mặt trận Bình Trị Thiên đang vào hồi quyết liệt. Bác Hồ không mặc tấm áo đó, mà gửi tặng Ủy ban Hành chính Liên khu Bốn để bán lấy tiền ủng hộ chiến sỹ mặt trận Bình Trị Thiên.
Buổi bán đấu giá tấm áo quý được tổ chức tại Đô Lương (Nghệ An). Đông đảo tổ chức, doanh nghiệp, những nhà công thương, những hộ khá giả và cán bộ, nhân dân trong vùng đến dự. Công ty Việt Thương ở Thanh Hóa, Đoàn Kiến thiết kinh tế Nghệ An cũng tới tham gia đấu giá. Thể thức cuộc đấu giá rất đơn giản là ai trả giá cao nhất sẽ được sở hữu tấm áo, nhưng những người không trúng đấu giá cũng sẽ hiến số tiền đã trả giá cho kháng chiến.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Bộ Tư lệnh Quân khu, ngày 9/12/1961. Ảnh tư liệu

Cộng hưởng với tấm lòng của lãnh tụ Hồ Chí Minh đối với chiến sỹ, cuộc đấu giá diễn ra sôi nổi, hào hứng, vì ai cũng muốn có tấm áo quý, hiện thân tấm lòng của vị cha già dân tộc. Cuối cùng, người được sở hữu báu vật đó là Lương y Phó Đức Thành. Ông trả giá cho tấm áo quý với một số tiền tương đương 160 lượng vàng lúc bấy giờ. Toàn bộ số tiền thu được trong cuộc đấu giá đã được Ủy ban Hành chính Liên khu Bốn chuyển cho mặt trận Bình Trị Thiên khói lửa.
Thế nhưng, tấm áo quý về gia đình chưa được 1 tháng, thì ngày 2/11/1948, ở Thanh Hóa diễn ra Đại hội Luyện quân lập công, do Thiếu tướng Nguyễn Sơn chủ trì, Lương y Phó Đức Thành lại gửi tặng báu vật cho Đại hội để làm phần thưởng động viên phong trào. 

 

Bác Hồ thăm chiến sỹ phòng không trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu

Lương y Phó Đức Thành quê ở Hưng Yên, nhưng lập nghiệp ở Vinh từ năm 1926, là người quản lý Công ty Đông Nam dược Vĩnh Hưng Tường lớn nhất Trung Kỳ khi đó. Ông là cha đẻ của cao Vạn Ứng, tiền thân của cao Sao Vàng thần thánh sau này mà Báo Nghệ An đã có bài giới thiệu. Ông là người có tấm lòng hào hiệp đã chủ trương và tham gia nhiều hoạt động từ thiện xã hội trước Cách mạng Tháng Tám.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia Hội đồng Nhân dân thành phố Vinh, Ủy viên Ban Chấp hành Đoàn Khoa học – Kỹ thuật Liên khu 4. Thời gian này, ông Phó Đức Thành còn là Trưởng ban Trang bị vũ khí của Liên khu.
Năm 1947, ông đã cử con trai mình là Phó Đức Thanh sang Ma Cao mua vũ khí chở bằng thuyền về trang bị cho đoàn Quang Trung ở Nghệ An. Một người con trai khác của cụ là bác sỹ Phó Đức Thực, có thời gian được phân công chăm sóc sức khỏe cho Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, nhưng rất tiếc anh đã mất sớm vì bạo bệnh năm 1949. Quân Y xá mang tên Phó Đức Thực hồi đó chính là tiền thân của Bệnh viện Quân y 354 anh hùng hiện nay.

 

Lương y Phó Đức Thành với tấm áo Bạch Liên, năm 1948. Ảnh tư liệu

Lương y Phó Đức Thành cũng chính là người đã sưu tầm và mua được với giá rất cao một văn bản mang bút tích của cụ Phan Đình Phùng, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Hương Khê, đề ngày 10 tháng 2 năm Hàm Nghi thứ ba, tức ngày 4/3/1887. Đây là bài thơ cụ Phan Đình Phùng viết tặng cụ Tô Bá Ngọc (ở Minh Thành, Yên Thành) vì cảm mến tấm lòng và công đức giúp đỡ nghĩa quân của cụ Tô. Năm 1965, lương y đã hiến tặng hiện vật quý này cho Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.

Phạm Xuân Cần

Nguồn: Phó Đức Thành – Thân thế và sự nghiệp, Đa Văn, Nxb Lao động, 2011

Theo https://baonghean.vn

Views: 3

The post Tấm áo Bạch Liên của Bác Hồ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thư của Bác Hồ động viên, khích lệ chiến sĩ Điện Biên 70 năm trước https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/thu-cua-bac-ho-dong-vien-khich-le-chien-si-dien-bien-70-nam-truoc.html Fri, 20 Dec 2024 03:40:28 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31111 Trong suốt thời gian diễn ra Chiến dịch Điện Biên 70 năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan

The post Thư của Bác Hồ động viên, khích lệ chiến sĩ Điện Biên 70 năm trước appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Trong suốt thời gian diễn ra Chiến dịch Điện Biên 70 năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, theo dõi sát sao tình hình ngoài chiến trường và cổ vũ, khích lệ tinh thần, động viên kịp thời các chiến sĩ Điện Biên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với một đơn vị bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. (Ảnh tư liệu: TTXVN)

Thực hiện kế hoạch Nava từ giữa năm 1953, thực dân Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Đến khi ta nổ súng tiến công, chúng đã có gần bốn tháng để xây dựng và củng cố hệ thống phòng ngự ở Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương lúc bấy giờ. Các tướng tá của Pháp và Mỹ coi đây là một “tập đoàn cứ điểm đáng sợ”, “một pháo đài bất khả xâm phạm”.

Trước tình hình đó, ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa, quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Quyết tâm của ta là “Tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo nên một bước ngoặt mới trong chiến tranh”. 

Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở màn trận chiến lược với quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm của Pháp tại Điện Biên Phủ. (Ảnh tư liệu TTXVN)

Trư­ớc ngày b­ước vào Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bác đã tặng cờ “Quyết chiến Quyết thắng” làm giải thưởng luân lưu để khích lệ động viên, thể hiện niềm tin của Người đối với quân dân trên mặt trận Điện Biên Phủ. Bác đã gửi tặng mỗi cán bộ, chiến sĩ ở mặt trận một chiếc ca rất đẹp có in đậm hai hàng chữ đỏ tươi: “Kiên quyết làm tròn nhiệm vụ”.

Để kịp thời động viên, cổ vũ và tiếp thêm sức mạnh cho quân ta vượt qua khó khăn và đánh thắng quân địch ở Điện Biên Phủ, ngay từ trận mở đầu, ngày 11/3/1954, trước khi quân ta nổ súng tiến công vào cứ điểm Him Lam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho các chiến sĩ Mặt trận Điện Biên Phủ. Trong thư Bác căn dặn: “Các chú sắp ra mặt trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang. Các chú vừa được chỉnh quân chính trị và chỉnh huấn quân sự và đã thu được nhiều thắng lợi về tư tưởng và chiến thuật, kỹ thuật. Nhiều đơn vị đã đánh thắng trên các mặt trận. Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới. Bác chờ các chú báo cáo thành tích để thưởng những đơn vị và cá nhân xuất sắc nhất. Chúc các chú thắng to. Bác hôn các chú”. 
Trước tình cảm của Bác, sau 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, chiều 7/5/1954 cán bộ chiến sĩ trên mặt trận Điện Biên Phủ với tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí đã đã khắc phục mọi khó khăn và thành công tiêu diệt hoàn toàn Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngay ngày 8/5/1954, Bác đã có “Thư khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc đã chiến thắng vẻ vang ở Điện Biên Phủ”: “Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ. Bác và Chính phủ thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang”.
Sau đó vài ngày, Bác gửi tiếp thư chúc mừng đến toàn thể cán bộ và chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên Phủ.

Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cán bộ, chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên. (Ảnh tư liệu)

Để chúc mừng những chiến công hiển hách của các chiến sĩ Điện Biên, trong cuộc gặp đoàn cán bộ chiến sĩ đã lập công xuất sắc trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bác nói: “Hôm nay, Bác thay mặt Đảng và Chính phủ trao cho các chiến sĩ lập công xuất sắc trong Chiến dịch Điện Biên Phủ Huân chương Chiến công. Riêng Bác còn tặng thêm mỗi cháu một ngôi sao đỏ và một tấm Huy hiệu”.

Bác Hồ gắn Huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên Phủ cho cán bộ chiến sĩ lập thành tích xuất sắc trong Chiến dịch. (Ảnh tư liệu)

Trong tâm trí các chiến sĩ Điện Biên lúc ấy, họ không bao giờ quên những lời dặn dò của Bác, đặc biệt là bữa cơm thân mật với Bác. Mở đầu bữa cơm, Bác nói vui: “Đây là bữa cơm riêng Bác mời các cháu, chứ không phải Nhà nước mời đâu. Toàn cây nhà lá vườn cả, nhưng các cháu phải ăn no. Các cháu ăn nhiều. Bác sẽ vui, sẽ khỏe”. Một bữa cơm đơn giản, không sơn hào hải vị nhưng cũng khiến các chiến sĩ xúc động nhớ mãi không quên. Bởi họ đã cảm nhận được tình yêu thương sâu sắc Bác dành cho mọi người.

Những món quà, bức thư, điện văn thật sự là món quà tinh thần vô cùng quý giá đối với những người chiến sĩ Điện Biên, tiếp thêm sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, quyết chí một lòng, chiến đấu anh dũng, giành chiến thắng lịch sử “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. 

Các chiến sĩ thi đua của mặt trận Điện Biên Phủ mang theo tin thắng trận về chúc mừng sinh nhật Bác (19/5/1954). (Ảnh tư liệu)

Tại Hội nghị Chính trị đặc biệt (3/1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và anh dũng của nhân dân cả nước ta, chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp của đế quốc Mỹ. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại ngày nay: chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công”.

Thùy Linh

https://vov.vn

Views: 5

The post Thư của Bác Hồ động viên, khích lệ chiến sĩ Điện Biên 70 năm trước appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Nguyễn Ái Quốc với tác phẩm “Lịch sử nước ta” – Những giá trị bất hủ https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/nguyen-ai-quoc-voi-tac-pham-lich-su-nuoc-ta-nhung-gia-tri-bat-hu.html Fri, 20 Dec 2024 03:32:59 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31107 Kỷ niệm 80 năm Bác Hồ viết tác phẩm “Lịch sử nước ta” là dịp để chúng ta ghi nhớ

The post Nguyễn Ái Quốc với tác phẩm “Lịch sử nước ta” – Những giá trị bất hủ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Kỷ niệm 80 năm Bác Hồ viết tác phẩm “Lịch sử nước ta” là dịp để chúng ta ghi nhớ công ơn của Người đã dành cả cuộc đời cho độc lập của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân, và cũng là dịp để chúng ta luôn ghi nhớ lịch sử nước nhà, lịch sử hào hùng của dân tộc mà cha ông ta qua nhiều thế hệ đã phải hy sinh xương máu để gìn giữ.

Bìa cuốn “Lịch sử nước ta” xuất bản năm 1942. Ảnh: Tư liệu

1. Lịch sử là động lực thôi thúc cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc

Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, ngày 28/1/1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc. Tại làng Pắc Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, Người đã mở nhiều lớp huấn luyện cán bộ cách mạng, trực tiếp bắt tay thực hiện chương trình thí điểm của Việt Minh, tổ chức các Hội Cứu quốc. Ngày 6/6/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết, nhất tề đứng lên đánh Pháp, đuổi Nhật. Người còn xuất bản tờ báo “Việt Nam độc lập” (số đầu tiên ra ngày 1/8/1941) và viết bài cho cơ quan ngôn luận Việt Minh bí mật đóng ở căn cứ rừng núi Cao Bằng. Mục đích của Người là giúp cán bộ Việt Minh có thêm nguồn tư liệu để truyền bá, vận động quần chúng tích cực tham gia vào đoàn thể cứu quốc, vào đội bán vũ trang chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng khi thời cơ đến.

Tác phẩm “Lịch sử nước ta” gồm 236 câu theo thể thức lục bát, xuất bản lần đầu vào tháng 2/1942, do Việt Minh tuyên truyền bộ ấn hành; trình bày lịch sử Việt Nam từ thời Vua Hùng dựng nước đến năm 1941. Nội dung tác phẩm nêu bật tinh thần yêu nước, truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc qua các triều đại, ca ngợi những anh hùng dân tộc trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm.

Trước năm 1941, những bộ thông sử của nước ta gồm có: Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Khâm định việt sử thông giám cương mục do Quốc sử quán triều Nguyễn viết… Những vị tiền nhân sử học biên soạn bằng chữ Hán và chữ Việt, theo thể văn chính luận, ghi chép các biến cố về đời sống, chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội nước nhà. Tuy phong cách viết khác nhau nhưng họ đều giống nhau ở tình yêu tha thiết với lịch sử đất nước. Được viết bởi Nguyễn Ái Quốc – Người cộng sản Việt Nam đầu tiên, “Lịch sử nước ta” là tác phẩm có giá trị đặc biệt đứng về phương diện sử học bởi đây là lần đầu tiên lịch sử Việt Nam được đánh giá theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tác giả Nguyễn Ái Quốc đã nêu lên những quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo làm phong phú thêm kho tàng tư tưởng lý luận của Đảng. Người đã khái quát và coi lịch sử là một nguồn tư liệu vô giá, là động lực góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Ngay từ những câu đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định vị trí quan trọng của lịch sử dân tộc:

“Dân ta phải biết sử ta,

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam,

Kể năm hơn bốn ngàn năm,

Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà”.[1]

Trân trọng lịch sử, tự hào về truyền thống giữ nước của dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã dùng những từ ngữ phổ thông, dân dã, dễ hiểu, dễ nhớ, ca ngợi, tri ân, vinh danh  các triều đại vua chúa, các đấng anh hùng có tài trị quốc an dân, phát triển đất nước, diệt giặc ngoài thù trong, mở mang bờ cõi như: Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân Nam Hán để lại “tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta”, Bà Triệu khởi nghĩa chống quân Ngô, Lý Bôn đánh Tàu “lập nên triều Lý sáu mươi năm liền”, Mai Thúc Loan chống nhà Đường, Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, “ra tài kiến thiết kinh dinh”, Lê Đại Hành “đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành”; “đời Trần văn giỏi võ nhiều” đã 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược. Khi quân Minh đô hộ nước ta, Lê Lợi với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã “Đánh 20 vạn quân Minh tan tành, Mười năm sự nghiệp hoàn thành…”. Đặc biệt, trong 236 câu diễn ca, Nguyễn Ái Quốc đã tâm huyết viết về thời đại Quang Trung – Nguyễn Huệ 40 câu, đủ biết Người đã dành ý tưởng của mình cho thời kỳ oai hùng này.

Bằng việc điểm lại những cuộc đấu tranh, khởi nghĩa chống quân xâm lược với những tên tuổi tiêu biểu, Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, thời nào đất nước ta cũng xuất hiện những nhân tài có công trị nước yên dân, xây dựng cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Đặc biệt là những khi đất nước bị xâm lăng, từ những người nông dân áo vải bình dị đã sản sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt có lòng yêu nước nồng nàn, có tài cầm quân thao lược giữ yên bờ cõi, trở thành tấm gương sáng, để lại tiếng thơm cho muôn đời. Đồng thời Nguyễn Ái Quốc cũng nghiêm khắc phê phán một số triều đại thoái vị cướp ngôi, tạo nên cảnh chia cắt “Lê Nam – Mạc Bắc”; “Trịnh Bắc – Nguyễn Nam”; “Nam – Bắc phân tranh”; “Vua Lê chúa Trịnh”;… cõng rắn, cắn gà nhà, rước voi giày mả tổ, gây nên thảm cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da nấu thịt, kéo dài hàng thế kỷ, làm chậm quá trình phát triển của đất nước trong một thời gian dài.

2. Dựa vào nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, làm nên lịch sử

Từ trong lịch sử dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã tìm được tư tưởng “dựa vào dân để có sức mạnh”. Người khẳng định anh hùng làm nên sự nghiệp cao cả vì biết dựa vào dân, tuy đánh giá cao vai trò của cá nhân, song vẫn khẳng định vai trò quyết định của nhân dân. Người nhấn mạnh khi nào đoàn kết được lực lượng yêu nước chung quanh tướng lĩnh trung quân ái quốc, lấy quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy thì sẽ đánh đổ giặc ngoại xâm và tay sai của chúng: Đó là sự kiện năm 40-43, Trưng Vương khởi binh đánh quân Mã Viện chiếm đất Giao Chỉ: “Quân Tàu nhiều kẻ tham lam – Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?- Hai Bà Trưng có đại tài – Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian – Ra tay khôi phục giang san – Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta”; Sự kiện năm 939, Tiền Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa thành đã giải phóng nước nhà khỏi ách Bắc thuộc với ý chí cùng quân dân dựng nghiệp lâu dài: “Ngô Quyền quê ở Đường Lâm – Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm”; Sự kiện năm 1427, Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn, “mặc dầu tướng ít binh đơn” nhưng “Vì dân hăng hái kết đoàn – Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng”.

Ngược lại, nếu vương triều nào, cá nhân nào không đoàn kết được sức mạnh của quần chúng thì kết cục chỉ là thất bại: Đó là sự kiện năm 722 Mai Hắc Đế khởi nghĩa chống nhà Đường nhưng “Vì dân đoàn kết chưa sâu – Cho nên thất bại trước sau mấy lần”; sự kiện năm 1802-1888, nhà Nguyễn Thế Tổ lên ngôi vua là Gia Long truyền nghiệp đến đời vua thứ 7 là Đồng Khánh thì “Trung kỳ cũng mất Bắc kỳ cũng tan! – Ngàn năm gấm vóc giang san – Bị vua nhà Nguyễn đem hàng cho Tây! – Tội kia càng đắp càng dầy – Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng”.

Dựa vào diễn biến mới nhất cuộc chiến tranh thế giới cuối năm 1941 đầu năm 1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đưa ra nhận định:

“Bây giờ Pháp mất nước rồi,

Không đủ sức, không đủ người trị ta.

Giặc Nhật Bản thì mới qua,

Cái nền thống trị chưa ra mối mành.

Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh,

Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà.

Ấy là nhịp tốt cho ta,

Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông”[2].

Như vậy là tương quan lực lượng giữa ta và địch đã có những thay đổi rõ rệt, trong khi thế và lực của ta ngày một mạnh lên còn thế và lực của Pháp – Nhật ngày càng suy yếu, bị động. Nhưng khả năng để cho chúng ta giành thắng lợi tuyệt đối còn chưa chắc chắn vì Mặt trận Việt Minh mới được thành lập, chưa có tầm ảnh hưởng sâu, rộng; sự đoàn kết toàn dân bắt đầu được củng cố, nhưng độ cố kết chưa sâu, chưa bền chắc, dễ bị kẻ thù lợi dụng, chia rẽ, đàn áp. Nhiệm vụ cơ bản của toàn Đảng, toàn dân lúc này là xây dựng tình đoàn kết chặt chẽ, muôn người như một. Đường lối cơ bản đó là sự bảo đảm cho cuộc đấu tranh đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập dân tộc đi đến thắng lợi.

Với tầm nhìn xa trông rộng, tư duy khoa học cùng hiểu biết sâu sắc, Nguyễn Ái Quốc ngợi ca tinh thần bất khuất của các vị anh hùng dân tộc trong lịch sử là nhằm thôi thúc toàn dân, không kể già, trẻ, gái, trai đồng tâm đứng lên xả thân cho tự do, độc lập. Từ những bài học qúy báu của lịch sử, toàn dân ta phải coi việc xây dựng đoàn kết là trung tâm của cuộc vận động cách mạng, là điều kiện cơ bản để Đảng và nhân dân ta khôi phục lại độc lập, tự do. Người kêu gọi:

“Người chúng ít, người mình đông

Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên.

Hỡi ai con cháu Rồng Tiên!

Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau.

Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu,

Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn.

Người giúp sức, kẻ giúp tiền,

Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta.

Trên vì nước, dưới vì nhà,

Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh.

Chúng ta có Hội Việt Minh

Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh.

Mai sau sự nghiệp hoàn thành

Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng.

Dân ta xin nhớ chữ đồng:

Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!”[3]

Phần cuối tác phẩm “Lịch sử nước ta” là mục “Những năm quan trọng”, ghi lại những sự kiện lớn trong lịch sử dân tộc diễn ra “trước Tây lịch, sau Tây lịch” kết thúc bằng mốc lịch sử 1945: “Năm 1945, Việt Nam sẽ độc lập”. Đây là một dự báo thiên tài của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, luôn có sự nhạy cảm đặc biệt đối với lịch sử, nhận thức sâu sát vận mệnh dân tộc, về chiều hướng phát triển của thời đại. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người đã đưa ra những nhận định, phán đoán và những dự báo kỳ diệu. Tháng 5/1941, trước những diễn biến mới trên thế giới, Người cũng dự báo: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”. Bốn năm sau, Liên Xô đã đánh bại phát xít, giúp một loạt nước Đông Âu đứng lên giành độc lập dân tộc, mở đường cho hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời.

Ngày nay, những nguyên lý tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc trong tác phẩm “Lịch sử nước ta” vẫn còn nguyên giá trị. Trong bối cảnh hiện nay, với sự biến đổi khôn lường của tình hình thế giới, chúng ta luôn ghi nhớ lịch sử, học tập và vận dụng thành công những kinh nghiệm quý báu của cha ông, những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thực tiễn đất nước, nhằm tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức đưa nước ta trở thành một nước phát triển có thể sánh vai với các nước trong khu vực và trên thế giới.

TS Minh Dương, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Theo Hochiminh.vn

Views: 4

The post Nguyễn Ái Quốc với tác phẩm “Lịch sử nước ta” – Những giá trị bất hủ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/van-hoa-phai-soi-duong-cho-quoc-dan-di.html Fri, 20 Dec 2024 03:21:57 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31102 Cuốn sách ”Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” tập hợp các bài viết về văn hóa của

The post Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Cuốn sách ”Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” tập hợp các bài viết về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cho thấy tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị to lớn.

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật vừa xuất bản cuốn sách Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi nhằm tri ân, ghi nhớ những đóng góp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.

Cuốn sách được xuất bản nhân kỷ niệm 134 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 – 19-5-2024).

Cuốn sách cũng là một lời khẳng định rằng vai trò của tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị to lớn, định hướng cho công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay.

Sách chọn lọc một số bài viết, bài phát biểu, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm định hướng xây dựng nền văn hóa của nước Việt Nam độc lập, tự chủ, sánh vai cùng với các quốc gia khác trên thế giới.

Bạn đọc sẽ được tìm hiểu những tư tưởng của người về văn hóa, văn nghệ như: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”; “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận… Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”…

Theo Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, cuốn sách là tài liệu giá trị, giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ những giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.

Sách đồng thời là cẩm nang để mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng phấn đấu, rèn luyện, học tập đạo đức, văn hóa.

Theo: Báo Tuổi Trẻ

Views: 7

The post Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Phong cách Bác Hồ, phong cách nêu gương https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/phong-cach-bac-ho-phong-cach-neu-guong.html Fri, 12 Jan 2024 07:31:10 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=25353 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, hết sức quan

The post Phong cách Bác Hồ, phong cách nêu gương appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, hết sức quan tâm coi trọng việc nêu gương của cán bộ, đảng viên. Cả cuộc đời giản dị, trong sáng của Người luôn là tấm gương đạo đức mẫu mực, tự giác nêu gương, nói đi đôi với làm – một tấm gương lớn cho các thế hệ con cháu mãi mãi noi theo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng nêu gương có một vai trò to lớn và là một giá trị trong chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, bởi như Người nói “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” 1 và “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” 2. Vì thế, Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên không những phải có trách nhiệm tự tu dưỡng tốt, mà còn phải làm gương trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, luôn nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi theo.
Theo Hồ Chí Minh: Nêu gương là bản thân mình phải làm gương trong công việc từ nhỏ đến lớn, thường xuyên khắc phục những hạn chế khuyết điểm của bản thân về mọi mặt, phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” để làm công việc chung. Trong tác phẩm Ðường Kách mệnh, viết từ những năm 20 của thế kỷ trước, và trong các bài nói, bài viết sau này, Hồ Chí Minh chỉ rõ mỗi đảng viên, cán bộ cũng như mỗi người chúng ta cần nhận thức và giải quyết tốt ba mối quan hệ:
– Ðối với bản thân, không được tự mãn, kiêu ngạo mà luôn học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm tự phê bình mình như rửa mặt hằng ngày để phát huy ưu điểm, nhận ra khuyết điểm để sửa chữa.
– Ðối với người phải có thái độ chân thành, khiêm tốn, thật thà, đoàn kết, và có tình thương yêu, bao dung, độ lượng.
– Ðối với công việc luôn giữ nguyên tắc công tư phân minh, phải để việc công lên trước việc tư, đã nhận việc gì thì không sợ khó không sợ khổ phải tận tâm tận lực hoàn thành tốt, việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh…
Với Người, nêu gương không chỉ hô khẩu hiệu không chỉ nói miệng. Muốn tiến hành tốt các nội dung nêu gương, thì cán bộ, đảng viên phải luôn thực hiện “nói đi đôi với làm”. Ðây là nguyên tắc trước hết, cực kỳ quan trọng của việc nêu gương. Thực tế cho thấy, người cán bộ đảng viên nói nhiều làm ít, hoặc nói một đằng làm một nẻo, hay nói mà không làm được thì không ai tin. Họ sẽ mất uy tín và vai trò trước quần chúng. Chỉ có nhất quán giữa lời nói và việc làm thì người cán bộ, đảng viên mới có được sự tin yêu của quần chúng. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian khổ hy sinh của Hồ Chí Minh là sự thống nhất trọn vẹn giữa nhận thức và hành động, giữa nói và làm. Suốt đời Hồ Chí Minh tâm niệm việc nêu gương tốt đúng như những điều Người dạy cán bộ, đảng viên và nhân dân về đạo đức cách mạng.
Nhớ lại, khi nước nhà vừa giành được độc lập năm 1945, để giải quyết nạn đói đang hoành hành, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào cả nước: “Vậy tôi đề nghị với đồng bào cả nước…: cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Ðem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo” 3 và Người nêu gương “tôi xin thực hành trước” rất nghiêm túc, cho dù phải làm việc nhiều, sức khỏe lại giảm sút bởi trải qua trận ốm nặng trước đó. Những đồng chí từng phục vụ bên Bác kể một lần tướng Tiêu Văn của quân đội Tưởng Giới Thạch mời chiêu đãi Bác Hồ vào đúng bữa cơ quan nhịn ăn để góp gạo cứu đói, dù anh em có báo cáo với Bác là phần gạo của Bác đã cho vào hũ gạo cứu đói rồi, nhưng Bác vẫn quyết định “nhịn ăn một bữa” vào ngày hôm sau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy đảng viên, nhân dân phải thực hành tiết kiệm, tiết kiệm sức lao động, thời giờ, tiền bạc; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, không xa xỉ, hoang phí, không bừa bãi, phô trương hình thức. Bản thân Bác đã sống cả cuộc đời thanh bạch từ ăn, ở đến phương tiện sử dụng phục vụ công việc hằng ngày. Ðồ dùng cá nhân của Bác cũng rất giản dị và tiết kiệm.
Bữa ăn của Bác thanh đạm như bữa ăn của mọi gia đình bình thường: Bát canh, quả cà, con cá hoặc lát thịt kho… Quần áo Bác mặc chỉ có vài bộ may cùng kiểu đơn giản. Khi đôi dép cao-su bị mòn, bộ áo quần ka-ki sờn đôi chỗ Bác vẫn dùng. Các đồng chí phục vụ định thay mới nhưng Bác không đồng ý. Có đồng chí lãnh đạo gần Bác thưa thật là Chủ tịch nước mặc áo sờn vá như thế không phù hợp lắm, Bác đã nói “Này chú! Chủ tịch Ðảng, Chủ tịch nước mặc áo vá thế này là cái phúc của dân đấy! Ðừng bỏ cái phúc ấy đi” 4. Những trang bản thảo thường được Bác viết ở mặt sau của những tờ tin tham khảo của Việt Nam Thông tấn xã. Bác đi công tác hay đi thăm đồng bào và chiến sĩ trong cả nước cũng chỉ bằng chiếc ô-tô bình thường. Các đồng chí cán bộ ngoại giao đang công tác ở nước ngoài biếu chiếc điều hòa nhiệt độ, nhưng Bác không dùng mà đề nghị chuyển chiếc điều hòa ấy cho các đồng chí thương, bệnh binh đang điều trị tại trại điều dưỡng hoặc quân y viện, là những người, những nơi cần có hơn. Khi về thăm các địa phương, Bác thường không báo trước để tránh đón rước linh đình, gây phiền hà và tốn kém của nhân dân. Ðồng thời, Người còn nhắc các đồng chí đi cùng chuẩn bị cơm nắm với muối vừng mang theo để tiết kiệm gạo, tiền của nhân dân.
Trong dịp Bác sang thăm Liên Xô, Ủy ban Trung ương Ðảng Cộng sản Liên Xô gửi cho Bác 4.000 rúp, đồng chí thư ký của Bác 1.000 rúp. Trước khi rời Mát-xcơ-va, Bác đã gửi lại Ủy ban Trung ương Ðảng Liên Xô 5.000 rúp đó. Lần Bác tới thăm Xí nghiệp
may 10, đơn vị có biếu Bác bộ quần áo ka-ki, Người nhận và sau đó gửi lại cùng lá thư để “gửi bộ áo ấy làm giải thưởng cho một đợt thi đua”…
Để việc nêu gương đạt kết quả thực tế, Hồ Chí Minh chủ trương phương pháp lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau. Người thường xuyên theo dõi những điển hình tiên tiến được phản ánh trên các báo trung ương, địa phương, ngành để tổng hợp và yêu cầu tìm cách nhân rộng. Năm 1969, trước khi đi xa, khi góp ý cho các đồng chí Bộ Văn hóa tuyển chọn những gương tiêu biểu để xuất bản thành sách Người tốt, Việc tốt, Bác nhấn mạnh rằng cần nêu gương những người bình thường hằng ngày có những hành động bình thường mà anh hùng, xứng đáng được học tập, ai ai cũng có thể làm theo.
Thực hiện lời dạy của Bác và noi theo gương sáng của Người, các thế hệ Việt Nam tiếp nối nhau phấn đấu thi đua để trở thành những tấm gương cho thế hệ sau cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Hôm nay biết bao tấm gương bình dị mà cao quý đã được Ðảng, Nhà nước và nhân dân tôn vinh, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Từ ý nghĩa to lớn của việc nêu gương nhằm xây dựng Ðảng luôn trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ, trong số nhiều giải pháp, Ðảng ta luôn đề cao vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp. Ðây là giải pháp đúng đắn và cũng là yêu cầu bức thiết trong tình hình hiện nay.
(st)

Views: 2243

The post Phong cách Bác Hồ, phong cách nêu gương appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-cua-dan-do-dan-va-vi-dan.html Tue, 28 Nov 2023 02:26:58 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=24814 Với khát vọng tìm đường giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân, đế quốc, người thanh

The post Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Với khát vọng tìm đường giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân, đế quốc, người thanh niên Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin như một tiền định và nhận thấy đây là con đường đúng đắn nhất đem lại độc lập, tự do cho nước nhà. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Song, quan trọng hơn là bản chất của nhà nước đó phải là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; phải đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.

Xuất phát từ tư tưởng đó, cùng với tích cực gây dựng, thúc đẩy phong trào cách mạng trong nước phát triển, Nguyễn Ái Quốc đã dày công nghiên cứu các loại hình nhà nước, nhất là những kiểu nhà nước đương thời, như: Nhà nước dân chủ tư sản của Mỹ, Pháp và Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô. Khi thời cơ giành độc lập xuất hiện, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng. Tháng 5/1941, dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra sự chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược và nhiệm vụ xây dựng lực lượng rộng khắp chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa; đặc biệt, Hội nghị đã quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) nhằm tập hợp lực lượng cách mạng rộng rãi. Trong đó, phần Chương trình Việt Minh đã chỉ rõ: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một Chính phủ Nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do Quốc dân đại hội cử ra sẽ thi hành những nhiệm vụ…”. Chủ trương đó, đã đáp ứng khát vọng cháy bỏng của các tầng lớp nhân dân về quyền được sống trong một đất nước độc lập, tự do, dân chủ, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Vì vậy, phong trào Việt Minh được đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ, phát triển rộng khắp. Ngày 04/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập với gần một triệu dân, có các ủy ban nhân dân do dân bầu và thực thi 10 chính sách lớn của Việt Minh. Sau khi lệnh Tổng khởi nghĩa vừa phát đi (chiều 16/8/1945), tại Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang, Tổng bộ Việt Minh đã khai mạc Quốc dân Đại hội Tân Trào. Tham dự Đại hội có đại biểu của cả ba miền Bắc – Trung – Nam và các ngành, các giới, các dân tộc, các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc và Việt kiều một số nước. Đại hội đã quyết định thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ cách mạng lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đây là nét sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và thực thi từng bước tư tưởng dân quyền ngay trong tiến trình đấu tranh giành quyền độc lập dân tộc. Quốc dân Đại hội đã thông qua quyết sách và bầu ra Chính phủ cách mạng lâm thời của nước Việt Nam để “lãnh đạo toàn quốc nhân dân kiên quyết đấu tranh kỳ cho nước được độc lập”, đặt cơ sở mang tính pháp lý cho một chế độ mới của dân, do dân và vì dân sắp ra đời.

Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngày 03/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần thực hiện; trong đó, có nhiệm vụ “tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Theo đó, tất cả công dân trai, gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống”, làm cho Nhà nước ta trở thành Nhà nước dân chủ, hợp hiến. Cùng với đó, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 34 thành lập Ban Dự thảo Hiến pháp gồm 7 thành viên, do Người làm Trưởng ban. Mặc dù trong hoàn cảnh thù trong, giặc ngoài, khó khăn chồng chất, nhưng Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được tổ chức thắng lợi vào ngày 06/01/1946 và trong Kỳ họp thứ Hai, Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã chính thức thông qua bản Dự thảo Hiến pháp. Như vậy, cơ sở đầu tiên của một Nhà nước dân chủ và pháp quyền đã được giải quyết chặt chẽ, công khai, minh bạch, thể hiện một trình độ dân chủ, tự do không thua kém bất cứ một quốc gia có truyền thống dân chủ nào trên thế giới. Điều đó càng được thể hiện rõ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái” và khẳng định: “Nhà nước của ta thành lập sau Cách mạng Tháng Tám đã là Nhà nước dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo”, “Liên minh công nông là nền tảng của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Như vậy, bản chất Nhà nước do Người dày công xây dựng là sự kết hợp hài hòa giữa tính giai cấp với tính dân tộc. Cơ sở xã hội của Nhà nước ta không bó hẹp trong phạm vi một giai cấp, tầng lớp, mà là toàn thể dân tộc.

Theo Hồ Chí Minh, dân chủ tức là “dân làm chủ”; “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do Nhân dân làm chủ”. Người giải thích “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”. Nhân dân nắm giữ mọi quyền lực, thông qua việc bầu Quốc hội và Chính phủ để thực hiện quyền lực của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp và đại diện. Vì vậy, Nhà nước đó là Nhà nước của dân. Nhà nước do Nhân dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình và ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để duy trì sự hoạt động; đồng thời, kiểm soát, giám sát người mình bầu ra và bãi miễn khi họ không làm tròn sự ủy thác, đại diện, cho nên đó là Nhà nước do dân. Nhà nước đó là Nhà nước vì dân, bởi “Cách mạng Tháng Tám thành công, ta lập ra Chính phủ mới, quân đội, công an, tòa án, pháp luật mới của Nhân dân để chống kẻ địch trong và ngoài, và để giữ gìn quyền lợi của nhân dân”, “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người”. Tuy nhiên, để Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân, theo Người cần phải thường xuyên xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân, được thể chế hóa thành các quy định mang tính pháp quyền và nguyên tắc tổ chức, vận hành của Nhà nước. Đồng thời, giao nhiệm vụ cho tất cả các cơ quan nhà nước “phải dựa vào Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của Nhân dân”, không ngừng nâng cao năng lực của các cơ quan đại diện quyền lực và cán bộ được ủy quyền để xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch hết lòng phục vụ Nhân dân; kiên quyết loại trừ những kẻ quan liêu, thoái hóa, biến chất, những kẻ miệng nói dân chủ nhưng làm việc theo lối quan chủ và “phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”.

Là nhà chính trị lỗi lạc, am hiểu sâu sắc các tư tưởng đức trị, pháp trị và các nền văn hóa tiên tiến trên thế giới, Hồ Chí Minh đã khéo léo kết hợp nhuần nhuyễn giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý nhà nước và xã hội. Vì vậy, trong khi đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, Người đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho toàn dân, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức. Người yêu cầu các cán bộ, công chức phải thường xuyên rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, trau dồi đạo đức cách mạng và làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến cho Nhân dân về các chủ trương, chính sách, hiến pháp, pháp luật, quyền và nghĩa vụ của Nhân dân, nhất là gương mẫu trong thực hiện để Nhân dân noi theo. Mặt khác, Người cũng động viên Nhân dân, với địa vị người chủ, cũng cần tích cực “giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình” để Chính phủ làm tròn nhiệm vụ của mình, “phê bình cán bộ, phê bình chính quyền, Đảng và các đoàn thể” để tiến bộ hơn nữa.

Có thể khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn còn nguyên giá trị trong giai đoạn hiện nay, khi mà nhiều “căn bệnh” được Người từng chỉ ra vẫn tồn tại, thậm chí có phần trầm trọng hơn. Đó là, để lọt những người có động cơ không trong sáng, “lợi ích nhóm”, “cánh hẩu” vào bộ máy lãnh đạo; hệ thống pháp luật còn chồng chéo, thiếu đồng bộ, tính công khai, minh bạch còn hạn chế; thủ tục hành chính còn gây phiền nhiễu cho dân, các cơ quan công quyền cồng kềnh, làm việc thiếu hiệu quả; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn kịp thời; kỷ cương, phép nước ở một số cơ quan, tổ chức và địa phương còn chưa nghiêm, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, v.v. Những hiện tượng đó từng được Hồ Chí Minh cho là biểu hiện của “bệnh quan liêu” – một loại bệnh rất nguy hiểm: “những người và những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí. Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí”. Từ đó, Người kê một số “thang thuốc” đặc hiệu để diệt trừ bệnh này, như: “Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết”, “Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân”, “Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình”, “Phải làm kiểu mẫu: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư”, v.v.

Để Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, trước hết mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và mọi quyết sách trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội phải xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người dân; phải phát huy đầy đủ quyền dân chủ của Nhân dân trong mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, bởi: “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Cùng với đó, phải tăng cường kiểm soát quyền lực như Người đúc kết: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”. Việc xây dựng pháp luật phải xuất phát từ sáng kiến của Nhân dân, có sự tham gia đóng góp ý kiến của các cơ quan đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân. Trước khi ban hành các văn bản chính sách, pháp luật mới hoặc sửa đổi thì “Sau khi thảo xong, chúng ta cần phải trưng cầu ý kiến của Nhân dân cả nước một cách thật rộng rãi”, mới có thể hạn chế sai sót và thật sự là chính sách, pháp luật của Nhà nước do Nhân dân, vì Nhân dân. Đồng thời, đẩy nhanh việc áp dụng chính phủ điện tử, nhằm thuận tiện cho công dân kiểm soát và giám sát Chính phủ, hạn chế việc cơ quan công quyền gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, phải chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực thực tế, có trách nhiệm và đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, làm tròn nhiệm vụ là người đầy tớ trung thành của Nhân dân.

Cuối cùng, “thang thuốc” không kém phần quan trọng có thể làm cho Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng mạnh mẽ trong điều kiện hội nhập quốc tế là, các cấp, các ngành, các tổ chức chính quyền, đoàn thể và toàn dân cần phải coi việc “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trở thành nhu cầu tự thân, việc làm thường xuyên hằng ngày.

                               Nguồn: Tạp chí Quốc phòng toàn dân (điện tử)

Views: 2981

The post Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân và sự cần thiết phải chống chủ nghĩa cá nhân https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/quan-diem-cua-ho-chi-minh-ve-chu-nghia-ca-nhan-va-su-can-thiet-phai-chong-chu-nghia-ca-nhan.html Mon, 27 Nov 2023 08:47:04 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=24811 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là

The post Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân và sự cần thiết phải chống chủ nghĩa cá nhân appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Theo Người, chống chủ nghĩa cá nhân là một nội dung liên quan trực tiếp tới vận mệnh của Đảng, chất lượng, hiệu quả của bộ máy Nhà nước và quyết định sự thành bại của cách mạng. Do vậy, trong bối cảnh hiện nay, chống chủ nghĩa cá nhân trở thành nhiệm vụ cấp bách, vô cùng quan trọng nhằm xây dựng Đảng vững mạnh, giữ vững niềm tin của nhân dân với Đảng.

Cách đây, 75 năm (15/10/1948 – 15/10/2023), với bút danh XYZ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Chủ nghĩa cá nhân” đăng trên báo Sự Thật. Người chỉ rõ những căn bệnh do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra; sự nguy hiểm của chủ nghĩa cá nhân và những biện pháp để ngăn chặn căn bệnh này.

Chủ nghĩa cá nhân có tính chất đặc biệt nguy hại, luôn là vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh phải trăn trở, suy nghĩ và tìm nhiều biện pháp kiên quyết phòng, chống. Từ tác phẩm “Đường Kách mệnh” năm 1927, đến tác phẩm cuối cùng “Di chúc” và khoảng gần 200 bài nói, viết về công tác xây dựng Đảng, về rèn luyện, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, thể hiện hệ thống những quan điểm, biện pháp hữu hiệu của Người về chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao uy tín, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Năm 1947 trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa cá nhân. Người chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”. Chủ nghĩa cá nhân là bệnh chính, bệnh mẹ, do đó mà sinh ra nhiều chứng bệnh khác.

Đến năm 1948, trong bài “Chủ nghĩa cá nhân”, Người chỉ rõ những biểu hiện của căn bệnh chủ nghĩa cá nhân là: “Ngày thường, thì kỷ luật kém. Khi có vấn đề nghiêm trọng, thì hoang mang. Lúc tính toán công việc, thì đặt lợi ích của cá nhân mình, của nhóm mình lên trên lợi ích chung”. Căn bệnh ấy đưa cán bộ, đảng viên “đến chỗ trái kỷ luật, trái lợi ích của dân tộc”; sẵn sàng “đặt lợi ích riêng của mình, của gia đình lên trên, lên trước lợi ích chung của dân tộc” và đi đến “lợi mình, hại người, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật”. Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Hồ Chí Minh cho rằng bên cạnh những cán bộ, đảng viên hăng hái, dũng cảm trong công tác vẫn còn một số ít cán bộ, đảng viên đạo đức, phẩm chất còn thấp kém, mang nặng “chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”; chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của cách mạng, nó là nguồn gốc của những “căn bệnh” làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm tha hóa Đảng. Qua nhiều tác phẩm, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta nhận thấy rằng chủ nghĩa cá nhân rất đa dạng, biến hóa khôn lường, muôn hình vạn trạng, nhưng căn bản là 10 căn bệnh như: Bệnh quan liêu, bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, bệnh “hữu danh vô thực”, bệnh cận thị, bệnh tị nạnh, bệnh xu nịnh, bệnh a dua và kéo bè, kéo cánh,… Đây là những căn bệnh gây nguy hiểm tiềm tàng làm cho Đảng mất dần tính cách mạng, tính trí tuệ, tính đạo đức, tính nhân dân… Chừng nào còn chủ nghĩa cá nhân thì cách mạng còn gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, chống chủ nghĩa cá nhân là việc làm cần thiết, thường xuyên của những người cộng sản chân chính.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng nặng nề của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nêu lên nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cho dù cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, lâu dài và gian khổ. Cuộc đấu tranh đó không kém cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù ngoại xâm, có khi còn khó khăn hơn, bởi lẽ, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù không lộ nguyên hình, nó ẩn nấp tinh vi trong tư tưởng, suy nghĩ của mỗi cá nhân và hành vi của mỗi cá nhân đó. Người cho rằng, mỗi cán bộ, đảng viên không phải cứ viết trên trán mình hai chữ “cộng sản” là được nhân dân yêu mến, mà phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng, chống sa vào chủ nghĩa cá nhân, góp phần làm cho Đảng ta thật sự “là đạo đức, là văn minh”.

Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng, về hy sinh hết thảy chủ nghĩa cá nhân vì lợi ích của Đảng, của dân tộc. Người luôn mong mỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc thì Đảng không có lợi ích gì khác. Do đó, muốn tẩy sạch bệnh chủ nghĩa cá nhân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cần thực hiện những giải pháp sau đây:

Thứ nhất là, cán bộ, đảng viên cần phải “nâng cao trình độ giác ngộ của mình; phải học theo cái tinh thần kiên quyết, dũng cảm, hy sinh, của nhân dân và của chiến sĩ”. Trong kháng chiến, không biết bao nhiêu “những người anh hùng, bỏ nhà, bỏ mình vì nước”, hy sinh cả thân mình cho đất nước, cho sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta. Do vậy, mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải học “tinh thần cao cả vẻ vang ấy” và “luôn luôn làm kiểu mẫu cho mọi người noi theo”.

Thứ hai là, Đảng phải “thực hành tự phê bình và phê bình đồng sự mình. Phê bình một cách thiết thực mà thân ái. Phê bình từ cấp trên xuống và từ cấp dưới lên. Phê bình nhau và giúp nhau sửa chữa”. Người chỉ rõ, trong tự phê bình và phê bình phải thực hiện một cách thường xuyên, nghiêm túc, đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết; tự phê bình và phê bình có lý, có tình, trên tinh thần thương yêu đồng chí, tôn trọng nhân cách của mỗi con người. “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ khoẻ mạnh vô cùng”.

Thứ ba là, mỗi cán bộ, đảng viên, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng “phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết” và “phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật”.

Thứ tư là, cán bộ, đảng viên phải “vào sâu dân chúng, vào sâu bộ đội. Hỏi ý kiến và hỏi sáng kiến của quần chúng. Gom góp kinh nghiệm của quần chúng để giải quyết các vấn đề, và trao đổi những kinh nghiệm mới cho cơ quan khác, địa phương khác”. Thực hiện nâng cao dân trí, phát huy quyền dân chủ thực sự và rộng rãi, tăng cường mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Đây là nội dung quan trọng tác động trực tiếp đến nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Hiện nay, nước ta đang tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, bên cạnh những thuận lợi, đang chịu sự chi phối thách thức rất nhiều từ mặt trái của cơ chế thị trường, những tiêu cực nảy sinh trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Chủ nghĩa cá nhân có nhiều điều kiện phát triển với những biểu hiện mới phức tạp, tinh vi. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện; ở một số cấp uỷ việc giáo dục đạo đức, lối sống còn bị xem nhẹ hoặc hình thức. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp, làm biến chất về đạo đức, lối sống, để cho chủ nghĩa cá nhân phát triển đã làm ảnh hưởng xấu đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, gây trở ngại lớn đến sự nghiệp xây dựng và phát triển bền vững đất nước. Để chống chủ nghĩa cá nhân, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, chúng ta cần nhận thức, quán triệt một cách đầy đủ tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về vấn đề này./.

(st)

Views: 1118

The post Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân và sự cần thiết phải chống chủ nghĩa cá nhân appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>