Khoa học công nghệ Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/khoa-hoc-cong-nghe Cổng Vào Tri Thức Fri, 17 May 2024 03:05:38 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/wp-content/uploads/2024/12/cropped-logotvbt-32x32.png Khoa học công nghệ Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/khoa-hoc-cong-nghe 32 32 Thủ tướng: KHCN và đổi mới sáng tạo là tài nguyên vô tận, là con đường ngắn nhất để đạt các mục tiêu https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/khcn-va-doi-moi-sang-tao.html Fri, 17 May 2024 03:05:38 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=27165 Thông tin tuyên truyền: Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2024 THỦ TƯỚNG: KHCN VÀ ĐỔI MỚI SÁNG

The post Thủ tướng: KHCN và đổi mới sáng tạo là tài nguyên vô tận, là con đường ngắn nhất để đạt các mục tiêu appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2024

THỦ TƯỚNG: KHCN VÀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO LÀ TÀI NGUYÊN VÔ TẬN, LÀ CON ĐƯỜNG NGẮN NHẤT ĐỂ ĐẠT CÁC MỤC TIÊU

Nhấn mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo là nguồn tài nguyên vô tận, không gian phát triển vô hạn, đồng thời cũng là con đường ngắn nhất để đạt được các mục tiêu, Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ rõ 6 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, trong đó có đề xuất, triển khai các chính sách vượt trội để phát huy hơn nữa vai trò của khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực.

Thủ tướng Phạm Minh Chính dự lễ chào mừng Ngày KHCN Việt Nam, kỷ niệm 65 năm thành lập Bộ KH&CN (1959-2024), lễ trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2024 – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Sáng 15/5, tại Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính dự lễ chào mừng Ngày Khoa học và Công nghệ (KHCN) Việt Nam (18/5), kỷ niệm 65 năm thành lập Bộ KH&CN (1959-2024), lễ trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2024 với chủ đề “KHCN và đổi mới sáng tạo – Nâng tầm vị thế quốc gia”.

Cùng dự có đồng chí Phạm Gia Khiêm, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan, Chủ tịch Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam Châu Văn Minh, Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam Lê Quốc Minh, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam Lương Quốc Đoàn; đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành, cơ quan Trung ương; đại diện các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế; các doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu KHCN, giáo dục và đào tạo, các nhà khoa học…

Bộ KH&CN, tiền thân là Ủy ban Khoa học Nhà nước, được thành lập theo Sắc lệnh số 016-SL ngày 4/3/1959 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII, Luật KHCN được thông qua, quy định ngày 18/5 hằng năm là Ngày KHCN Việt Nam.

Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt, hiện nay, Bộ đang tập trung rà soát, đề xuất Thủ tướng Chính phủ các giải pháp nhằm nâng cao năng suất lao động dựa trên nền tảng KHCN và đổi mới sáng tạo. Bộ cũng đang tập trung sửa đổi toàn diện Luật KH&CN năm 2013 nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội cho giai đoạn tới.

Về giải thưởng Tạ Quang Bửu, Ban Tổ chức cho hay qua 10 năm triển khai, Bộ KH&CN đã trao giải thưởng cho 18 nhà khoa học là tác giả của các công trình khoa học xuất sắc và 4 nhà khoa học trẻ.

Năm 2024, giải thưởng tiếp nhận 97 hồ sơ, trong đó có 76 hồ sơ trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật, 21 hồ sơ trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn; 71 hồ sơ đề cử Giải thưởng chính và 26 hồ sơ đề cử Giải thưởng trẻ. Số lượng hồ sơ đề cử tại kỳ xét tặng giải thưởng năm nay tăng gấp đôi so với mọi năm và đều có chất lượng rất tốt.

Một trong những điểm mới của giải thưởng năm nay là mở rộng việc xem xét, trao giải thưởng cho các nhà khoa học trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn; tiếp nhận hồ sơ theo hình thức đề cử, xem xét, lựa chọn nhà khoa học để trao giải thưởng thông qua việc đánh giá kết quả nghiên cứu cơ bản trong tối đa 3 bài báo khoa học quốc tế được công bố trong thời gian 7 năm.

Thủ tướng: KHCN và đổi mới sáng tạo là tài nguyên vô tận, là con đường ngắn nhất để đạt các mục tiêu – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

KHCN phát triển vượt bậc, thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực

Phát biểu tại buổi lễ, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, Ngày KHCN Việt Nam năm 2024 có ý nghĩa đặc biệt, cũng là dịp kỷ niệm 65 năm thành lập Bộ KH&CN (1959-2024) và trao Giải thưởng khoa học mang tên cố giáo sư Tạ Quang Bửu – một trong những người đặt nền móng trong việc xây dựng và phát triển các lĩnh vực khoa học cơ bản ở Việt Nam.

Đây là dịp để chúng ta cùng nhìn lại chặng đường hình thành và phát triển của ngành KHCN Việt Nam, cùng tri ân sự nỗ lực cống hiến không mệt mỏi của biết bao thế hệ nhà khoa học, cán bộ quản lý, đóng góp quan trọng, thiết thực cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các thời kỳ.

Thủ tướng nhắc lại, cách đây 61 năm, ngày 18/5/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã đến dự Đại hội đại biểu Hội Phổ biến khoa học và kỹ thuật Việt Nam toàn quốc lần thứ nhất (tiền thân của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam). Người căn dặn “Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi… Các cô, các chú phải ra sức đem hiểu biết khoa học và kỹ thuật của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động, để nhân dân thi đua sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ…”.

Lời căn dặn của Bác Hồ kính yêu đã trở thành kim chỉ nam cho hoạt động KHCN nước nhà trong suốt hơn 60 năm qua. Theo Thủ tướng, những lời của Bác rất giản dị, sâu sắc. Khoa học phải xuất phải từ thực tiễn, quay lại phục vụ thực tiễn, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đảng, Nhà nước ta không có mục tiêu nào khác cao hơn là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, đời sống nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. KHCN phải hướng đến mục tiêu này.

Thủ tướng nhấn mạnh, với nhiều chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển KHCN và phát huy vai trò đội ngũ trí thức, nhà khoa học, ngành KHCN nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, đạt những thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ nhất, trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc, các nhà khoa học và đội ngũ cán bộ kỹ thuật của chúng ta đã vượt lên hoàn cảnh, mang tinh thần và nhiệt huyết của mình đóng góp quan trọng vào các chiến công, chiến thắng của quân và dân ta như Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 và đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử…

Thứ hai, bước sang giai đoạn hòa bình, đội ngũ nhà khoa học, cán bộ khoa học và kỹ thuật đã phát huy tinh thần sáng tạo, đóng góp vào các công trình có ý nghĩa quan trọng, thay đổi diện mạo của đất nước (như Nhà máy thủy điện Hòa Bình, Nhà máy thủy điện Sơn La, Đường dây 500 kV Bắc – Nam, các công trình dầu khí, các công trình cầu, đường, sân bay, bến cảng, khai hoang, cải tạo vùng Đồng Tháp Mười, nghiên cứu y học, vaccine, ghép tạng…).

Thứ ba, cùng với các kết quả trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, trong lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng, KHCN và đổi mới sáng tạo đóng góp thực hiện mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh ngày càng rõ nét. Có thể khẳng định, lực lượng KHCN Việt Nam tham gia tích cực và đóng góp quan trọng vào công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, chúng ta đã hình thành được hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam; về các yếu tố nền tảng, đường lối phát triển cơ bản, các chính sách về kinh tế, văn hóa, quốc phòng-an ninh, đối ngoại, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; đúc rút được các bài học kinh nghiệm quý báu.

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Bộ trưởng KH&CN Huỳnh Thành Đạt trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu, tặng hoa chúc mừng PGS.TS Trần Mạnh Trí và TS. Nguyễn Thị Kim Thanh – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thứ tư, đội ngũ những người làm khoa học ngày càng lớn mạnh. Nhiều nhà khoa học Việt Nam có tầm ảnh hưởng khu vực, quốc tế, mang lại vinh dự, tự hào cho đất nước, là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ, trong đó có các nhà khoa học xuất sắc đi đầu trong các lĩnh vực nghiên cứu. “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, nhưng hào kiệt về KHCN lúc nào cũng có”, Thủ tướng phát biểu.

Thứ năm, xếp hạng quốc tế về KHCN và đổi mới sáng tạo của Việt Nam không ngừng được cải thiện. Năm 2023, Việt Nam xếp thứ 46, tăng 2 bậc so với năm 2022. Trong 10 năm qua, tính từ năm 2013, thứ hạng của Việt Nam tăng 30 bậc, từ vị trí 76 lên 46. Việt Nam liên tục duy trì vị trí dẫn đầu trong nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp.

Việt Nam được Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) coi là quốc gia đạt tiến bộ về đổi mới sáng tạo một cách có hệ thống và có tiềm năng lớn, nhất là trong thế hệ trẻ. Đến nay, Việt Nam đã có 4 “kỳ lân” khởi nghiệp lĩnh vực công nghệ (MoMo, Sky, Mavis, VNLIFE), xếp thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á.

TS. Nguyễn Thị Kim Thanh công tác tại Viện Vật lý, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam được trao giải thưởng qua 1 công trình được công bố trên tạp chí Physical Review Letters, là tạp chí khoa học hàng đầu thế giới của ngành vật lý – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Năm nay, Giải thưởng Tạ Quang Bửu được trao cho PGS.TS. Trần Mạnh Trí và TS. Nguyễn Thị Kim Thanh.

PGS.TS. Trần Mạnh Trí đang công tác tại trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ông được trao giải thưởng qua cụm ba công trình được công bố trên các tạp chí khoa học thuộc top 5% hàng đầu thế giới trong các ngành kỹ thuật môi trường, độc học, sức khỏe và đột biến gen. Cụm công trình này góp phần giải quyết vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu hiện nay là ô nhiễm môi trường do sự phát tán của các hóa chất tổng hợp.

TS. Nguyễn Thị Kim Thanh công tác tại Viện Vật lý, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam được trao giải thưởng qua 1 công trình được công bố trên tạp chí Physical Review Letters, là tạp chí khoa học hàng đầu thế giới của ngành vật lý. Công trình thể hiện 3 kết quả đột phá về hướng nghiên cứu, có ý nghĩa quan trọng cho phát triển công nghệ máy tính lượng tử. GS. Kiselev (đồng tác giả của công trình) nói ý tưởng của TS. Nguyễn Thị Kim Thanh là một kiệt tác tao nhã về vật lý hiện đại.

Thay mặt lãnh đạo Chính phủ, Thủ tướng đánh giá cao và nhiệt liệt chúc mừng các tác giả, các nhà khoa học được trao tặng Giải thưởng Tạ Quang Bửu năm nay, đồng thời, ghi nhận và biểu dương sự nỗ lực, kết quả đạt được và những đóng góp của đội ngũ các nhà khoa học nói riêng và ngành KHCN nói chung cho đất nước.

Thủ tướng cũng đánh giá cao điểm đặc biệt của giải thưởng năm nay là bên cạnh việc chọn ra đề tài xuất sắc, còn xét tới cả những nghiên cứu được thực hiện trong điều kiện khó khăn, nỗ lực vượt qua các rào cản để giúp nền khoa học Việt Nam hội nhập thế giới.

Cũng theo Thủ tướng, kể từ khi được tổ chức lần đầu tiên vào ngày 18/5/2014, Ngày KH&CN Việt Nam đã trở thành ngày hội của các nhà khoa học, những người làm KHCN trên cả nước.

Theo Thủ tướng, bên cạnh những kết quả đạt được là cơ bản, nền KHCN của đất nước vẫn còn những hạn chế, bất cập và tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Nhận thức của các cấp, các ngành và các địa phương về vai trò của KHCN và đổi mới sáng tạo còn chưa đầy đủ, toàn diện, nhất là với khoa học xã hội và nhân văn.

Cơ chế, chính sách quản lý KHCN còn nhiều điểm chưa phù hợp, chưa dựa trên đặc thù của hoạt động KHCN; chưa có đột phát trong chính sách thu hút, sử dụng, trọng dụng nhà khoa học tài năng; trong khi đó cạnh tranh thu hút nhân tài KHCN đang là một cuộc chạy đua khốc liệt ở nhiều nơi trên thế giới.

Kinh phí đầu tư còn hạn hẹp; cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị phục vụ hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, nhất là trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thị trường KHCN phát triển còn chậm; chưa xây dựng được sàn giao dịch công nghệ hoạt động hiệu quả; kết nối cung cầu về KHCN, đổi mới sáng tạo còn hạn chế; cơ chế thương mại hoá sản phẩm KHCN còn chưa đột phá để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Đội ngũ các nhà khoa học, người làm KHCN còn chưa nhiều, chưa đồng đều; việc đào tạo nhà khoa học và công tác tổ chức các hoạt động nghiên cứu và phát triển KHCN chưa được chú trọng ở cả cấp độ cơ sở giáo dục đào tạo, nghiên cứu, doanh nghiệp và cơ quan quản lý…

Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt, hiện nay, Bộ đang tập trung rà soát, đề xuất Thủ tướng Chính phủ các giải pháp nhằm nâng cao năng suất lao động dựa trên nền tảng KHCN và đổi mới sáng tạo – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ý nghĩa sống còn đối với quá trình “bắt kịp, tiến cùng, bứt phá và vượt lên”

Thủ tướng đánh giá trong thế giới ngày nay, dưới tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ 4, KHCN đã phát triển bùng nổ trên tất cả các lĩnh vực và đang làm thay đổi sâu sắc thế giới, các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng nói riêng và nền kinh tế toàn cầu nói chung theo hướng thông minh hơn, hiệu quả hơn và với tốc độ nhanh hơn, biến động khó lường.

Các bài học kinh nghiệm thành công trên thế giới, nhất là ở Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Đức, Phần Lan…, cho thấy vai trò to lớn của KHCN đối với sự phát triển và vượt lên của các quốc gia. Mặt khác, những bài học kinh nghiệm thất bại, rơi vào bẫy thu nhập trung bình của nhiều quốc gia trên thế giới cũng cho thấy sự thất bại của chính sách KHCN ở những nơi này.

Xác định rõ những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức, từ những bài học kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương “Phát triển và ứng dụng KHCN là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp….”.

Những kết quả thành công và đóng góp của KHCN như đã nêu trên là minh chứng rõ nét khẳng định: Đây là một chủ trương, đường lối hết sức đúng đắn, phù hợp với bối cảnh tình hình quốc tế, trong nước trong thời gian qua và còn giá trị trong giai đoạn mới, những năm tới.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Phát triển mạnh mẽ KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính để tăng trưởng kinh tế” và “Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng KHCN, đổi mới sáng tạo”.

“Có thể nói, KHCN và đổi mới sáng tạo chính là một yếu tố nền tảng của chuyển đổi số và chuyển đổi xanh – hai trong các yếu tố quan trọng nhất của quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên phạm vi toàn cầu và đặc biệt quan trọng đối với nước ta hiện nay. KHCN và đổi mới sáng tạo là con đường ngắn nhất để đạt được các mục tiêu.

Chủ tịch Hội KHCN Phan Xuân Dũng trình bày tham luận – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo với vai trò nền tảng phát triển đất nước nhanh, bền vững là yêu cầu khách quan, lựa chọn khôn ngoan và cần có ưu tiên về nguồn lực (thể chế, cơ chế, chính sách, hạ tầng, con người…)”, Thủ tướng nói.

Vì vậy, Thủ tướng mong rằng, tinh thần say mê nghiên cứu, dấn thân vì KHCN của các thế hệ đi trước tiếp tục được lan tỏa, phát huy mạnh mẽ, tạo động lực, truyền cảm hứng trong thế hệ trẻ, nhất là đội ngũ nhà khoa học hôm nay và tương lai, trong đó có các nhà khoa học nữ.

“Cho dù ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ công việc gì, chúng ta tin rằng, những chủ nhân tương lai của đất nước, với tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc trong trái tim, với sự thông minh, can đảm, ý chí tự lực, tự cường, sự quyết tâm cao độ và nỗ lực vươn lên, cũng sẽ có những đóng góp thiết thực cho sự nghiệp phát triển KHCN của đất nước.

Không chỉ những nhà khoa học mới đóng góp cho KHCN, tất cả chúng ta đều có thể góp sức cho sự nghiệp KHCN ở những góc độ khác nhau, công việc, nhiệm vụ khác nhau, nhất là thế hệ trẻ. Chúng ta hãy nỗ lực, cố gắng hơn nữa, để KHCN, đổi mới sáng tạo đồng hành cùng sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước, vì tương lai tươi sáng của dân tộc, vì hạnh phúc, ấm no của nhân dân. Đây chính là một yếu tố đặc biệt quan trọng để góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân ta quyết tâm phấn đấu, thực hiện được mục tiêu xây dựng đất nước hiện đại, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc và phát triển bền vững”, Thủ tướng phát biểu.

Người đứng đầu Chính phủ khẳng định: Nếu các nguồn tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn, trở nên ngày càng khan hiếm, thì KHCN, đổi mới sáng tạo là nguồn tài nguyên vô tận, không gian phát triển vô hạn và có thể xuất phát từ những ý tưởng đơn giản nhất, những con người bình dị nhất, không phân biệt giới tính, màu da, trình độ, tuổi tác, tầng lớp trong xã hội.

Thủ tướng nghe giới thiệu về lịch sử hình thành và quá trình phát triển của Bộ KH&CN Việt Nam – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2030 khẳng định, phát triển nguồn nhân lực gắn với KHCN và đổi mới sáng tạo là một trong 3 đột phá chiến lược, là quốc sách hàng đầu cho phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, có thể khẳng định, đây chính là một động lực rất quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh; là một yếu tố có ý nghĩa sống còn đối với quá trình vươn lên “bắt kịp, tiến cùng, bứt phá và vượt lên” trong thế giới ngày nay.

Để góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững, trong thời gian tới, Thủ tướng chỉ rõ, cần phát huy hơn nữa vai trò của KHCN, đổi mới sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực, coi đây là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của các cấp, các ngành, các địa phương, với phương châm “hạ tầng thông suốt, cơ chế thông thoáng, quản trị thông minh”, trong đó tập trung vào 6 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, các cấp ủy Đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương tổ chức thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, nhất là Kết luận số 69-KL/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 20-NQ/TW Trung ương khóa XI về phát triển KHCN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, trước mắt tập trung vào 3 nội dung: Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển bao trùm, toàn diện; đầu tư thích đáng về hạ tầng; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực khoa học xã hội và nhân văn.

Thứ hai, tăng cường thu hút, đa dạng hóa các nguồn lực cho KHCN và đổi mới sáng tạo; phát triển mạnh nhân lực KHCN, khuyến khích khu vực tư nhân, các doanh nghiệp, tăng cường các hình thức hợp tác công tư tham gia đào tạo nhân lực KHCN. Tập trung phát triển mạnh thị trường KHCN để góp phần tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Thứ ba, các bộ, ngành, địa phương cần kiên trì, mạnh dạn đề xuất, triển khai các chính sách vượt trội cho KHCN về thể chế, cơ sở vật chất, nhân lực, trong đó có các chính sách ưu đãi, trọng dụng, tôn vinh, khen thưởng cho người làm công tác KHCN và đổi mới sáng tạo nhằm khơi dậy niềm đam mê, khuyến khích sự dấn thân trong thực hiện các nhiệm vụ KHCN, nhất là nhà khoa học trẻ, các nhà khoa học đang hoạt động trong điều kiện khó khăn như ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo…

Thủ tướng tham quan và nghe giới thiệu Mô hình kinh tế tuần hoàn từ chất thải – một sản phẩm của Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam nghiên cứu – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thứ tư, đối với các doanh nghiệp, cần coi hoạt động nghiên cứu, phát triển, ứng dụng KHCN và đổi mới sáng tạo là một trong các yếu tố quan trọng nâng cao năng lực năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và sự phát triển của doanh nghiệp, nhất là các lĩnh vực chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, ứng phó biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên, già hóa dân số, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe người dân…

Thứ năm, có chính sách phù hợp tăng cường thu hút các nhà khoa học Việt Nam, quốc tế có uy tín đang làm việc ở các nước có thể đóng góp phù hợp vào sự phát triển khoa học trong nước thông qua các cơ chế hợp tác đa dạng (như: Tham gia giảng dạy, nghiên cứu, nhận hướng dẫn nghiên cứu sinh Việt Nam…) để đào tạo đội ngũ nghiên cứu trong nước tiếp cận với KHCN tiên tiến, hội nhập thế giới.

Thứ sáu, đối với các nhà khoa học, Thủ tướng đề nghị cần đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết. Các nhà khoa học cần nhận thức trọng trách lớn lao đối với đất nước, dám dấn thân, dám hy sinh, dám chấp nhận rủi ro. Lịch sử đã ghi nhận nhiều tấm gương cống hiến của các nhà khoa học đối với vận mệnh quốc gia.

Thủ tướng nhấn mạnh: “Đất nước ta, xã hội chúng ta đang rất cần sự dấn thân, vượt qua khó khăn, trở ngại của các nhà khoa học để thực hiện thành công các nhiệm vụ KHCN, đổi mới sáng tạo, góp phần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, mang lại niềm vinh dự, tự hào cho cá nhân, gia đình, cộng đồng, dân tộc và đất nước.

Một đất nước Việt Nam hào hùng với truyền thống lịch sử, văn hoá 4.000 năm – với mỗi con người Việt Nam mang trong mình tinh thần yêu nước nồng nàn, sự kiên trì, bền bỉ, tự lực, tự cường, nỗ lực vươn lên, càng áp lực lại càng nỗ lực, càng khó khăn lại càng thông minh – không thể thiếu KHCN, đổi mới sáng tạo trong hành trang, con đường phát triển của mình – dám đương đầu với khó khăn, thử thách và cả dấn thân, hy sinh để dẫn đến thành công. Nguồn lực bắt nguồn từ tư duy, động lực bắt nguồn từ sự đổi mới, sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân, doanh nghiệp”.

Với tinh thần đó, chúng ta mong muốn và tin tưởng rằng, với truyền thống tốt đẹp 65 năm qua của ngành KHCN, đội ngũ các nhà khoa học sẽ đồng hành cùng cả nước vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, chung sức, đồng lòng, tinh thần vượt khó, sự say mê, đắm đuối trong nghiên cứu KHCN để có những đóng góp ngày càng nhiều hơn cho sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng hùng cường, thịnh vượng; nhân dân Việt Nam ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Giám đốc Trung tâm Chuyển đổi số HDBank giới thiệu về Kiosk MediPay- giải pháp y tế thông minh do HDBank hợp tác triển khai cùng Trung tâm Thông tin y tế Quốc gia – Bộ Y tế (NHIC) – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

*Trong khuôn khổ sự kiện, Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu đã tham quan triển lãm giới thiệu những thành tựu KHCN tiêu biểu trong 65 năm qua và khu vực gian hàng trưng bày các kết quả nghiên cứu, sản phẩm của các lĩnh vực quốc phòng, ngân hàng, nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, y tế, khoa học xã hội và nhân văn… thời gian qua.

Nhiều gian hàng gây ấn tượng với các giải pháp ưu việt, điển hình như Kiosk MediPay – giải pháp y tế thông minh do HDBank hợp tác triển khai cùng Trung tâm Thông tin y tế Quốc gia – Bộ Y tế giúp các bệnh nhân được đăng ký khám chữa bệnh nhanh chóng, thanh toán viện phí 100% không tiền mặt bằng cách tích hợp tài khoản thanh toán viện phí thông minh với tài khoản khám chữa bệnh và căn cước công dân. Chỉ từ 1-2 phút, bệnh nhân hoàn toàn chủ động thực hiện toàn bộ quy trình trên tại các Kiosk MediPay đặt tại các bệnh viện.

Kiosk MediPay được HDBank tài trợ hoàn toàn miễn phí cho các cơ sở y tế nhằm đẩy mạnh công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực y tế theo định hướng của Chính phủ và Bộ Y tế. Mới đây, HDBank đã thử nghiệm thành công và dự kiến trong thời gian tới sẽ đặt các Kiosk tại các cơ sở y tế trên toàn quốc.

Hà Văn // https://baochinhphu.vn/

Views: 374

The post Thủ tướng: KHCN và đổi mới sáng tạo là tài nguyên vô tận, là con đường ngắn nhất để đạt các mục tiêu appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
6 nhiệm vụ trọng tâm phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-2.html Thu, 28 Mar 2024 09:16:18 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=26166 Thông tin tuyên truyền: Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2024 6 NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM PHÁT TRIỂN

The post 6 nhiệm vụ trọng tâm phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2024

6 NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM PHÁT TRIỂN KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO

Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI, ngày 01/11/2012 về phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế (gọi tắt là Nghị quyết 20), hoạt động KH&CN đã có chuyển biến tích cực, từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết này vẫn còn một số hạn chế, yếu kém, có mặt chậm khắc phục, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Để tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết 20 gắn với Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Hội nghị Trung ương lần thứ tám (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 69-KL/TW ngày 11/01/2024 yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội tập trung thực hiện tốt 6 nhiệm vụ trọng tâm. Tạp chí xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc 6 nhiệm vụ trọng tâm này.

  1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST)

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy, hành động, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý, xác định phát triển KH,CN&ĐMST là nhiệm vụ trung tâm trong phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng; gắn với phát triển kinh tế – xã hội của ngành, vùng, địa phương, tạo nền tảng để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy, hành động, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý, xác định phát triển KH,CN&ĐMST là nhiệm vụ trung tâm trong phát triển kinh tế – xã hội.

Khẩn trương cụ thể hóa nghị quyết, chủ trương của Đảng, thúc đẩy phát triển KH,CN&ĐMST, tạo bước đột phá để chuyển nhanh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất lao động, tiến bộ KH,CN&ĐMST, nguồn nhân lực chất lượng cao và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái, góp phần chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế quốc gia, phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội, hội quần chúng trong công tác vận động, tuyên truyền, giám sát, phản biện xã hội, động viên nhân dân tham gia tích cực, góp phần phát triển KH,CN&ĐMST. Kịp thời biểu dương, khen thưởng tập thể, cá nhân có nhiều hoạt động đổi mới sáng tạo, sáng chế, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, ứng dụng và chuyển giao công nghệ mới mang lại hiệu quả thiết thực.

  1. Đổi mới tư duy, hoàn thiện chính sách, pháp luật, nâng cao vai trò quản lý nhà nước về KH,CN&ĐMST

Tổ chức thực hiện tốt Chiến lược phát triển KH,CN&ĐMST đến năm 2030 gắn với Nghị quyết số 29-NQ/TW, Nghị quyết số 45-NQ/TW. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về KH,CN&ĐMST theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ, chuẩn mực quốc tế, tạo sự đồng bộ, thống nhất, hiệu quả trong tổ chức thực hiện. 

Chú trọng các chính sách tài chính, đầu tư, đấu thầu, quản lý và sử dụng tài sản công, chuyển giao, ứng dụng KH&CN, phát triển công nghệ số, công nghệ cao, bảo hộ sở hữu trí tuệ; chính sách xã hội hóa.

Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù, chính sách vượt trội, cơ chế thử nghiệm chính sách mới, rủi ro nhằm thúc đẩy phát triển, ứng dụng, chuyển giao các lĩnh vực KH&CN có tính nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn.

Đồng thời, nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù, chính sách vượt trội, cơ chế thử nghiệm chính sách mới, rủi ro nhằm thúc đẩy phát triển, ứng dụng, chuyển giao các lĩnh vực khoa học, công nghệ có tính nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn, công nghệ cao, công nghệ lõi, công nghệ nguồn, công nghệ mới và chuyển đổi số; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong nghiên cứu, phát triển sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, giá trị cao, thân thiện với môi trường, tham gia có hiệu quả vào chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tăng cường cải cách hành chính, phân cấp, phân quyền; thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách để phát triển KH,CN&ĐMST là quốc sách hàng đầu. 

Bảo đảm sử dụng có hiệu quả ngân sách nhà nước và có chính sách thu hút nguồn lực từ doanh nghiệp dành cho hoạt động KH,CN&ĐMST; ưu tiên, tập trung nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất, phát triển nguồn nhân lực và thị trường khoa học, công nghệ, hợp tác quốc tế. 

Tăng cường năng lực dự báo chiến lược về xu thế phát triển của khoa học, công nghệ; đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại, nghiên cứu và phát triển công nghệ mới; gắn nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ với phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế. 

Thường xuyên kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm vi phạm trong thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về KH,CN&ĐMST.

  1. Nâng cao tiềm lực KH,CN&ĐMST

Tiếp tục sắp xếp, đẩy mạnh cơ chế tự chủ đối với các tổ chức KH&CN công lập nhằm thu hút, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực quốc gia, ngành, vùng, nguồn lực trong và ngoài nước. 

Tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học, nhất là các đại học trọng điểm quốc gia tăng cường hoạt động giảng dạy gắn với nghiên cứu, phát triển KH,CN&ĐMST, đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng những lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh.

Có cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đội ngũ cán bộ KH&CN.

Có cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đội ngũ cán bộ KH&CN, nhất là chuyên gia đầu ngành, nhà khoa học giỏi, nhân tài. Khuyến khích thu hút, tạo nguồn cán bộ khoa học từ sinh viên xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ; hỗ trợ việc phát triển các nhóm nghiên cứu trẻ, có tiềm năng.

Tập trung phát triển một số tổ chức KH&CN đạt trình độ khu vực và thế giới; xây dựng chuẩn mực nghề nghiệp trong nghiên cứu khoa học phù hợp thông lệ quốc tế. 

Phát triển mạnh mẽ các khu công nghệ cao, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hệ thống phòng thí nghiệm trọng điểm, nhóm nghiên cứu mạnh, hạ tầng thông tin và thống kê về KH,CN&ĐMST theo hướng hiện đại, tiếp cận trình độ các nước tiên tiến.

  1. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo

Phát triển các trung tâm và mạng lưới đổi mới sáng tạo, trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, hình thành các cụm liên kết đổi mới sáng tạo với khu công nghệ cao, trung tâm tài chính, quỹ đầu tư mạo hiểm, trường đại học, viện nghiên cứu; triển khai các hoạt động đào tạo kiến thức, kỹ năng về KH,CN&ĐMST trong các cơ sở giáo dục; xây dựng các vườn ươm công nghệ, nền tảng đổi mới sáng tạo mở, mạng lưới đổi mới sáng tạo mở; khuyến khích doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn công nghiệp hàng đầu thành lập trung tâm nghiên cứu và đổi mới sáng tạo nhằm thúc đẩy phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo. 

Quan tâm xây dựng, phát triển văn hóa phù hợp với tính mới, tính khác biệt của hoạt động KH,CN&ĐMST.

Phát triển các hướng nghiên cứu, giải pháp công nghệ gắn với chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh. Phát triển kinh tế số trên nền tảng KH,CN&ĐMST quốc gia, ngành, vùng gắn với các chuỗi giá trị, cụm liên kết ngành, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo; chú trọng vùng trọng điểm và phát huy lợi thế của từng khu vực.

Nghiên cứu phát triển công nghệ thay thế, công nghệ sử dụng nguồn nguyên liệu từ chất thải tái chế, công nghệ năng lượng xanh.

  1. Thúc đẩy phát triển thị trường KH&CN

Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích, hỗ trợ cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nghiên cứu, phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, các bên cùng có lợi; chủ động, kịp thời cập nhật, ứng dụng phát triển các dịch vụ, sản phẩm chủ lực góp phần xây dựng thương hiệu quốc gia. 

Có chính sách ưu đãi cho sản phẩm đang trong thời kỳ thử nghiệm, sử dụng công nghệ mới và các hoạt động tư vấn, nhập khẩu, xuất khẩu công nghệ.

Gia tăng số lượng, nâng cao chất lượng, hiệu quả khai thác tài sản trí tuệ, nhất là tài nguyên trí tuệ của doanh nghiệp và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. 

Nghiên cứu, phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng tiêu chuẩn quốc gia hài hòa tiêu chuẩn quốc tế đối với các công nghệ, sản phẩm mới, sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm chủ lực đáp ứng yêu cầu của thị trường.

Khuyến khích phát triển tổ chức dịch vụ KH&CN, trung tâm xúc tiến và hỗ trợ chuyển giao công nghệ, trung tâm, sàn giao dịch công nghệ, chợ công nghệ; mạng lưới tổ chức trung gian cung cấp dịch vụ tìm kiếm, đánh giá, định giá, môi giới, thử nghiệm, chuyển giao kết quả, sản phẩm KH,CN&ĐMST, quan tâm tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân sử dụng kết quả, sản phẩm này như hàng hóa đặc biệt có giá trị, quyền sở hữu và lưu thông trên thị trường. 

Tăng cường kết nối các sàn giao dịch công nghệ với các trung tâm ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH,CN&ĐMST.

  1. Đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế về KH,CN&ĐMST

Thúc đẩy hội nhập sâu rộng, mở rộng hợp tác quốc tế, nhất là với các đối tác chiến lược và tận dụng cơ hội từ việc tham gia các hiệp định thương mại đa phương, song phương, các hoạt động hợp tác nghiên cứu, đào tạo, tư vấn với tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế để tiếp cận, chuyển giao, ứng dụng KH&CN tiên tiến, các chuẩn mực quốc tế. 

Thành lập tổ chức KH&CN có vốn nước ngoài tại Việt Nam; thu hút chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài tham gia nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đào tạo nhân lực. Tổ chức các hoạt động triển lãm, diễn đàn, sàn giao dịch, chợ công nghệ để giới thiệu, chuyển giao kết quả nghiên cứu, công nghệ. Phát triển mạng lưới đại diện KH&CN của Việt Nam ở nước ngoài.

Khuyến khích liên doanh, liên kết, chuyển giao công nghệ giữa các tổ chức, doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, luật pháp Việt Nam.

TCKH&CNVN // https://vjst.vn/

Views: 0

The post 6 nhiệm vụ trọng tâm phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Công nghiệp văn hóa và không gian sáng tạo số https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/cong-nghiep-van-hoa.html Thu, 28 Mar 2024 08:11:22 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=26163 Thông tin tuyên truyền: Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2024 CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA VÀ KHÔNG GIAN

The post Công nghiệp văn hóa và không gian sáng tạo số appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2024

CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA VÀ KHÔNG GIAN SÁNG TẠO SỐ

Không gian sáng tạo số đang trở thành một xu thế mới giúp mở rộng biên độ của sự sáng tạo, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa. Sự kết hợp giữa truyền thống và đương đại, giữa nền văn hóa đa dạng, phong phú và công nghệ hiện đại đánh dấu sự tiến bộ và sáng tạo của công nghiệp văn hóa nước ta.

Không gian sáng tạo số tạo nhiều cơ hội cho sự sáng tạo văn hóa nước ta

Ngày nay, trong công nghiệp văn hóa, các không gian văn hóa ngày càng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy học tập, giao lưu, sáng tạo, góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của cộng đồng. Theo tổng kết của Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia, đến nay Việt Nam có khoảng hơn 200 không gian văn hóa, nằm chủ yếu ở các đô thị lớn như: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế… Các mô hình như đường sách, phố đi bộ Nguyễn Huệ, phố đi bộ hồ Gươm, phố bích họa Phùng Hưng hay không gian văn hóa Hồ Chí Minh chính là những ví dụ tiêu biểu cho không gian văn hóa hoạt động mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa của cộng đồng.

Cạnh đó, không gian văn hóa không chỉ là nơi phát triển về tinh thần, thụ hưởng văn hóa, là điểm nhấn cho đô thị, miền quê, thúc đẩy du lịch mà còn là nơi để phát huy tinh thần sáng tạo của người làm văn hóa, kết nối giữa chủ thể sáng tạo và người thụ hưởng sáng tạo. Nói một cách khác, không gian sáng tạo văn hóa là cầu nối đưa các sản phẩm văn hóa tới người tiêu dùng, tạo động lực cho phát triển công nghiệp văn hóa.

Tuy nhiên, hiện nay, với nhu cầu phát triển của công nghiệp văn hóa, dường như không gian sáng tạo văn hóa “tại chỗ” bắt đầu trở nên chật hẹp, chưa đủ đáp ứng. Trong thời đại của công nghệ số, hoạt động của các không gian sáng tạo hiện nay không chỉ diễn ra trong không gian cụ thể của đời thực, mà còn có sự mở rộng trên internet.

Giờ đây, bên cạnh không gian văn hóa truyền thống đã xuất hiện không ít không gian văn hóa ảo trên các nền tảng số đóng góp đáng kể vào việc kết nối sáng tạo cũng như giao lưu, giới thiệu, lan tỏa các giá trị văn hóa Việt ra thế giới. Ở khía cạnh phát triển văn hóa, các nền tảng YouTube, Instargam, Facebook, Podcast… ngày càng nổi trội với tư cách là những hệ sinh thái tích hợp bên trong các không gian số. Các không gian số này nơi chia sẻ thông tin của người sử dụng một cách dễ dàng, nhanh chóng, mà còn là không gian thuận lợi và không giới hạn cho nhiều sáng tạo văn hóa – nghệ thuật.

ThS. Trần Văn Hiếu, Viện Văn hóa nghệ thuật (VHNT) quốc gia Việt Nam phân tích trên truyền thông, không gian số là “mỏ vàng” với những người nhanh nhạy. Ở đó, tất cả nội dung số đều có giá trị và có thể được chia sẻ và cho thuê, thậm chí cả các giao dịch, được gọi là “tài sản số”. Những nhà phát triển kỹ thuật số đã nhận ra trong một vài năm nữa, tài sản số sẽ trở thành một trong những tài sản quan trọng của nhân loại.

Và trên những không gian số, sáng tạo VHNT đang diễn ra ở khắp các lĩnh vực: Văn hóa, điện ảnh, mỹ thuật, thư viện, nghệ thuật biểu diễn cho đến các sáng tạo dưới dạng thức kỹ thuật số phức tạp. Không chỉ trong nước, kết nối với quốc tế rộng mở đã giúp văn hóa sáng tạo của Việt Nam dần tăng cả về lượng và chất. Trước xu hướng phát triển ấy, vài năm trở lại đây, bên cạnh các hoạt động sáng tạo VHNT truyền thống còn có một không gian giới thiệu tác phẩm vô cùng rộng mở trên không gian số. Trên không gian số hiện nay, các sáng tạo về nội dung như trên các môi trường Facebook, YouTube, Instargram, Tiktok, Website, Podcast chiếm mức độ phổ biến đối với công chúng.

Sáng tạo trên không gian số ở Việt Nam nhanh chóng được biết đến không chỉ trên môi trường mạng, mà còn có giá trị trong đời sống thực, được thể hiện như là cầu nối giữa người sáng tạo đến người tiếp cận nội dung. Điều này kích thích, tạo động lực cho các sáng tạo VHNT trên không gian số rộng rãi, có chiều sâu và mang lại giá trị tiền bạc, hình ảnh, uy tín cho các văn nghệ sĩ cũng như người sáng tạo nội dung.

Phát huy ưu điểm, hạn chế mặt trái

Một không gian triển lãm mỹ thuật trực tuyến. (Nguồn ảnh: Chụp màn hình)

Có thể nói, không gian sáng tạo số thực sự đã mở ra một thế giới hấp dẫn với người dùng, nơi mà người sáng tạo nội dung và công chúng chưa bao giờ tiếp xúc với nhau dễ dàng đến như vậy. Các chuyên gia chỉ ra rằng, không gian số giúp tăng năng suất trong sáng tạo văn hóa, là một môi trường tạo điều kiện cho sự tương tác và hợp tác giữa các cá nhân và tổ chức, để rồi từ đó chia sẻ ý tưởng và tạo ra những dự án đa dạng từ nhiều lĩnh vực khác nhau, từ nghệ thuật đến công nghiệp.

Không gian sáng tạo số đã trở thành một phần quan trọng của văn hóa đương đại, nơi mà sự sáng tạo và công nghệ hòa quyện để tạo ra những trải nghiệm độc đáo và đổi mới. Trong không gian ấy, công nghệ số giúp tổ chức và phân phối nội dung văn hóa một cách hiệu quả hơn, giảm bớt sự phụ thuộc vào các kênh truyền thống. Điều này mang lại sự độc lập và tự do sáng tạo hơn cho chủ thể sáng tạo văn hóa.

Một yếu tố quan trọng ít người nhắc đến, đó là khía cạnh dữ liệu và phân tích. Có thể nói, không gian sáng tạo số cung cấp dữ liệu đáng kể về sở thích, xu hướng và phản hồi từ cộng đồng. Các cơ quan quản lý văn hóa, tổ chức văn hóa và nghệ sĩ có thể sử dụng thông tin này để hiểu rõ hơn về đối tượng thụ hưởng văn hóa để có những chính sách hoặc sáng tạo nội dung phù hợp.

Không chỉ thế, không gian này còn tạo ra những nền tảng cho sự đào tạo về văn hóa. Giới trẻ hiện nay có xu thế “sống trên mạng”, vì thế, việc đào tạo cũng cần hướng về sử dụng không gian mạng làm môi trường để phát triển. Thời gian qua, nhiều chương trình đào tạo và sự kiện học thuật trong không gian sáng tạo số đã giúp mở rộng cơ hội cho các thế hệ văn hóa, tạo nguồn cảm hứng, nhiệt huyết, góp phần tạo ra thế hệ truyền thừa năng động trong công nghiệp văn hóa.

Bên cạnh việc phát huy mặt tích cực, các chuyên gia cũng nhấn mạnh những mặt trái mà không gian sáng tạo số mang đến. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ trên thế giới mạng, sự ra đời và phát triển của các không gian sáng tạo văn hóa, nghệ thuật ở nước ta đứng trước không ít thách thức. Nhiều giá trị văn hóa chính thống, chân chính đang bị bóp méo trên không gian số.

Cạnh đó còn là sự lấn át của các sản phẩm văn hóa ngoại lai, sự lấn át của các doanh nghiệp, tập đoàn kinh doanh văn hóa, nghệ thuật nước ngoài đối với những người hoạt động văn hóa, nghệ thuật trong nước. Do đó, rất cần có định hướng, quản lý để tránh hiện tượng có những không gian văn hóa có nội dung đi ngược lại lợi ích dân tộc, vi phạm chuẩn mực đạo đức xã hội, gây bức xúc trong dư luận.

ThS. Trần Văn Hiếu cho rằng, các sáng tạo nội dung trên không gian số khá đa dạng và phong phú. Quản lý và định hướng các nội dung này là bước đi cần thiết nhằm thích ứng với sự phát triển, đồng thời chấn chỉnh các nội dung không phù hợp.

Không phải ai khi sáng tạo nội dung trên không gian số đều ý thức được nội dung mình làm ra. Bên cạnh những nội dung tích cực cũng tồn tại một số cá nhân, tổ chức hiểu lệch lạc, lợi dụng tự do ngôn luận hay chỉ “câu view”… đang làm cho sáng tạo VHNT trên không gian số thêm rối loạn, làm công chúng hoang mang.

Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh, phát triển công nghiệp văn hóa phải góp phần quan trọng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng; phải được đặt trong tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, kết nối các hoạt động sáng tạo, văn hóa, nghệ thuật với sản xuất, kinh doanh, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hài hòa; dựa trên đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Đó chính là tôn chỉ mà tất cả các ngành, các cấp, các chủ thể sáng tạo và thụ hưởng văn hóa cần nắm vững. Làm sao để ứng dụng công nghệ số để phát huy sáng tạo, giao lưu quốc tế, tăng trưởng kinh tế mà vẫn thượng tôn pháp luật, giữ vững được nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, đó là bài toán mà mỗi người làm văn hóa cần đặt ra cho mình.

Ngọc Mai // https://baophapluat.vn/

Views: 746

The post Công nghiệp văn hóa và không gian sáng tạo số appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Đầu tư ít phát thải: Thanh long Bình Thuận cắt giảm 68% lượng phát thải các bon và tiết kiệm 50% năng lượng https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/dau-tu-it-phat-thai.html Thu, 28 Mar 2024 08:03:37 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=26159 Thông tin tuyên truyền: Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2024 ĐẦU TƯ ÍT PHÁT THẢI: THANH LONG

The post Đầu tư ít phát thải: Thanh long Bình Thuận cắt giảm 68% lượng phát thải các bon và tiết kiệm 50% năng lượng appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2024

ĐẦU TƯ ÍT PHÁT THẢI: THANH LONG BÌNH THUẬN CẮT GIẢM 68% LƯỢNG PHÁT THẢI CÁC BON VÀ TIẾT KIỆM 50% NĂNG LƯỢNG

Sự chia sẻ của các đại biểu tại Hội thảo “Từ trang trại đến bàn ăn: Thanh long xanh và bền vững ở Bình Thuận” đã minh chứng cho việc Việt Nam đã, đang và sẽ có thể vận dụng nhiều cách tiếp cận sáng tạo để phát triển nông nghiệp xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu. Hội thảo do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tổ chức ngày 29/01/2024.

Nhiều kết quả đáng khích lệ từ Dự án “Thúc đẩy sự tham gia khu vực tư nhân vào đầu tư ít phát thải và thích ứng với khí hậu trong việc thực hiện những đóng góp do quốc gia tự quyết định của Việt Nam cho ngành nông nghiệp” đã được đại diện của UNDP, Bộ NN&PTNT và các tỉnh Bình Thuận, Bạc Liêu chia sẻ tại Hội thảo. Chỉ trong vòng 3 năm, dự án đã tạo được những thành tựu đáng kể trong việc chuyển đổi chuỗi cung ứng thanh long ở Bình Thuận và tôm ở Bạc Liêu thành những điểm sáng về mô hình nông nghiệp xanh của địa phương, góp phần thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam.

Chuyển đổi sang sử dụng bóng đèn LED tiết kiệm năng lượng và hệ thống tưới tiêu tiết kiệm nước thay vì phương thức truyền thống, người dân đã có thể cắt giảm 68% lượng phát thải các bon và tiết kiệm 50% năng lượng.

Cụ thể, với thanh long ở Bình Thuận, dự án đã góp phần cải thiện cuộc sống và sinh kế của gần 5.000 nông dân địa phương, giới thiệu cho họ các phương pháp sản xuất xanh bền vững. Với việc chuyển đổi sang sử dụng bóng đèn LED tiết kiệm năng lượng và hệ thống tưới tiêu tiết kiệm nước thay vì phương thức truyền thống, người dân đã có thể cắt giảm 68% lượng phát thải các bon và tiết kiệm 50% năng lượng. Ngoài ra, việc lắp đặt hệ thống tưới tiêu sử dụng năng lượng Mặt trời áp mái và các công nghệ tiết kiệm nước đã có thể giúp giảm 42% lượng nước tiêu thụ, tiết kiệm cho mỗi trang trại ít nhất 600.000 đồng/ha (25 USD/ha).

4 hoạt động cơ bản của Dự án

Tại Hội thảo, Đại diện của UNDP đã chia sẻ về nội dung, ý nghĩa của dự án “Thúc đẩy sự tham gia khu vực tư nhân vào đầu tư ít phát thải và thích ứng với khí hậu trong việc thực hiện những đóng góp do quốc gia tự quyết định của Việt Nam cho ngành nông nghiệp”. Theo đó, trên cơ sở mục tiêu chung của Dự án là thúc đẩy sự tham gia của khối tư nhân trong đầu tư, hỗ trợ và thực hiện các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng biến đổi khí hậu góp phần thực hiện NDC của Việt Nam. Dự án chú trọng 04 hoạt động chính:

Thúc đẩy phát triển nâng cao chất lượng liên kết chuỗi thanh long theo hướng phát thải các bon thấp, bền vững và chống chịu với rủi ro khí hậu. Hoạt động này tập trung hỗ trợ kỹ thuật khuyến nông và đào tạo về thương mại điện tử, lập kế hoạch kinh doanh thanh long xanh và áp dụng các thực hành thân thiện với môi trường, tiết kiệm nước, sử dụng vật tư đầu vào hướng đến giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất và chế biến; sử dụng đèn LED để chiếu sáng, tưới nhỏ giọt, sử dụng năng lượng Mặt trời để vận hành hệ thống tưới.

Quảng bá phát triển thương hiệu cho sản phẩm thanh long tỉnh Bình Thuận. Hoạt động này tập trung vào: tập huấn nâng cao năng lực doanh nghiệp/hợp tác xã (HTX), người sản xuất trong chuỗi cung ứng thanh long; chia sẻ các bài học kinh nghiệm với các ngành hàng nông sản khác; xây dựng thương hiệu thanh long Bình Thuận chất lượng cao, các sản phẩm chế biến trong chuỗi xanh hóa thanh long Bình Thuận; tổ chức các hội thảo, trong đó nổi trội là hoạt động kết nối các doanh nghiệp và HTX trong chuỗi giá trị thanh long xanh.

Hợp tác trong việc thúc đẩy chuyển đổi số trong quản lý và sản xuất thanh long. Tập trung triển khai các giải pháp số hóa, hệ thống truy xuất nguồn gốc, hỗ trợ thông tin trong nghiên cứu và phát triển, phân tích kinh doanh cho hệ thống thông tin chuỗi cung ứng thanh long; hợp tác trong việc thúc đẩy chuyển đổi số trong việc quản lý và sản xuất thanh long; hỗ trợ thúc đẩy thực hiện hoạt động chuyển đổi số tại các HTX/doanh nghiệp; tập huấn xác định dấu chân các bon trong canh tác thanh long.

Kêu gọi nguồn tài chính xanh và các cơ chế ưu đãi tài chính để đầu tư cho các công nghệ sản xuất và chế biến thân thiện môi trường, phát thải các bon thấp trên địa bàn tỉnh Bình Thuận.

Dự án được triển khai trên 04 HTX/doanh nghiệp tại 03 huyện với tổng số người hưởng lợi là 4.495 người, trong đó số người hưởng lợi trực tiếp là 1.038 người (chiếm 23,09%) và số người hưởng lợi gián tiếp là 3.457 người (chiếm 76,91%); ưu tiên các HTX là nữ lãnh đạo và thanh niên quản trị.

Qua đào tạo, tập huấn, Dự án đã góp phần thay đổi tập quán canh tác, nhận thức về sản xuất thanh long được nâng cao; HTX/doanh nghiệp lập được kế hoạch kinh doanh xanh, từ đó chủ động sản xuất theo quy trình thân thiện với môi trường, đầu ra sản phẩm được tích hợp đa giá trị.

Thanh long Bình Thuận – phát huy hiệu quả từ Dự án

Về kết quả triển khai Dự án tại Bình Thuận, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận Đoàn Anh Dũng cho biết: đã có trên 80.000 bóng đèn LED 9W tiết kiệm năng lượng được chuyển đổi với 100% hộ thành viên tại các HTX chuyển đổi từ bóng đèn Compact sang sử dụng đèn Led 9W, tiết kiệm được hơn 50% điện năng tiêu thụ, góp phần giảm tới 68% lượng khí thải; áp dụng hệ thống tưới tiết kiệm nước đã giảm 41,67% lượng nước sử dụng; đẩy mạnh công nghệ năng lượng tái tạo, năng lượng xanh qua lắp đặt hệ thống năng lượng Mặt trời để phục vụ đóng gói sản phẩm và phục vụ tưới.

Dự án đã triển khai áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử tại các HTX/doanh nghiệp thanh long.

Đặc biệt, Dự án đã triển khai áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử tại các HTX/doanh nghiệp thanh long, từ đó các hợp tác xã, doanh nghiệp đã
chứng minh chất lượng sản phẩm nâng cao khả năng cạnh tranh thị trường thông qua một hệ thống truy xuất nguồn gốc minh bạch và có trách nhiệm; từ 50 ha ban đầu có thể truy xuất nguồn gốc, đã mở rộng lên 269 ha và đã được theo dõi phát thải các bon. Tính đến cuối tháng 12/2023, có khoảng 8.640 lượt ha thanh long, tương đương 23.300 tấn thanh long được theo dõi phát thải các bon. Kết quả này đánh dấu sự thành công trong việc sản xuất và xuất khẩu thanh long tỉnh Bình Thuận bền vững và có trách nhiệm; từ đó đã giúp các HTX, doanh nghiệp có đủ điều kiện để ký kết các hợp đồng liên kết tiêu thụ bền vững.

Bên cạnh đó, các hoạt động góp phần xanh hoá sản xuất thanh long cũng được triển khai thực hiện, như: trồng cây lâm nghiệp (lấy gỗ tạo vùng đệm) hàng biên trên các trang trại sản xuất; hỗ trợ doanh nghiệp và khu vực tư nhân nâng cao nhận thức và thông tin về chương trình tín dụng ưu đãi có liên quan, nhằm tăng cường chính sách tín dụng cho vay từ đó nâng cao năng lực cho các chủ thể trong nông nghiệp xanh và bền vững.

Để đưa cây thanh long phát triển theo hướng xanh, bền vững, tỉnh Bình Thuận xác định rõ những mục tiêu, giải pháp. Cụ thể: 1) nhân rộng và đẩy mạnh chuyển giao các kết quả đạt được từ hoạt động của dự án đến các HTX/doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thanh long; đồng thời ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, sáng kiến có từ dự án vào sản xuất; phát triển ngành hàng thanh long hiện đại, bền vững, có giá trị gia tăng cao, thích ứng với biến đổi khí hậu và đáp ứng thị trường quốc tế; 2) thúc đẩy thực hành canh tác bền vững, hướng dẫn nông dân đẩy mạnh việc sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP đảm bảo chất lượng sản phẩm; đẩy mạnh việc sử dụng bóng đèn LED 9W; tưới tiết kiệm nước trong sản xuất; tích cực áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc và mã QR để chứng minh chất lượng và trách nhiệm môi trường.

VH // https://vjst.vn/

Views: 0

The post Đầu tư ít phát thải: Thanh long Bình Thuận cắt giảm 68% lượng phát thải các bon và tiết kiệm 50% năng lượng appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe.html Thu, 28 Mar 2024 07:21:51 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=26155 Thông tin tuyên truyền: Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2024 PHÁT TRIỂN KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ

The post Phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2024

PHÁT TRIỂN KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC

Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021 – 2030 khẳng định khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo là một trong các khâu đột phá chiến lược quan trọng. Vì vậy, để phát triển nhanh và bền vững đất nước cần hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới.

1- Ngày 1-11-2012, Nghị quyết số 20-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đưa ra quan điểm: Phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước và tài năng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đóng vai trò quyết định thành công của sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ(1).

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH – CN và ĐMST). Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số dựa trên nền tảng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo”(2). Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030 được thông qua tại Đại hội XIII cũng nhấn mạnh: Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính để tăng trưởng kinh tế(3). Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định tăng trưởng kinh tế, phát triển đất nước phải dựa trên nền tảng KH – CN và ĐMST, tận dụng tốt cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để có sự bứt phá, vươn lên trong một số ngành, lĩnh vực. Trong đó: Một là, làm rõ mối quan hệ giữa phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa bằng các biện pháp cụ thể, như về cơ chế, chính sách phát triển, ưu tiên KH – CN, gắn nông nghiệp với công nghiệp và thị trường… Phát triển mạnh khu vực dịch vụ dựa trên nền tảng ứng dụng thành tựu KH – CN hiện đại, nhất là các ngành có giá trị gia tăng cao, như du lịch, viễn thông, logistics, ngân hàng – tài chính; hai là, nhấn mạnh hơn về hạ tầng kết nối liên vùng. Đại hội XIII của Đảng đặt mục tiêu tới năm 2030, cả nước phải có ít nhất 5.000km cao tốc, trong khi từ năm 2000 tới năm 2021, cả nước mới hoàn thành được gần 1.100km cao tốc(4); tiếp đến là hạ tầng năng lượng và hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông, phát triển hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN; ba là, phát triển kinh tế biển trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó có phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển và đô thị ven biển, trong đó chú ý phát triển kinh tế biển gắn với an ninh – quốc phòng, phát triển kinh tế gắn với môi trường và phòng, chống thiên tai; phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế và đô thị ven biển; bốn là, phát triển đô thị và kinh tế đô thị, nhấn mạnh xây dựng đô thị văn minh, thông minh phù hợp với văn hóa vùng, miền.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm các đơn vị nghiên cứu, sản xuất trong Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC)_Ảnh: TTXVN

Ngày 11-5-2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030. Chiến lược đưa ra ba quan điểm phát triển KH – CN và ĐMST: 1- Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là quốc sách hàng đầu, đóng vai trò đột phá chiến lược trong giai đoạn mới; là động lực chính để thúc đẩy tăng trưởng, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả; là nhân tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, các ngành, lĩnh vực kinh tế – xã hội, địa phương và doanh nghiệp; là nền tảng để thực hiện chuyển đổi số quốc gia; góp phần quan trọng nâng cao đời sống nhân dân, phát triển bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh; 2- Phát triển đồng bộ, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và các hệ thống đổi mới sáng tạo ngành, vùng, trong đó lấy doanh nghiệp làm trung tâm, viện nghiên cứu và trường đại học là chủ thể nghiên cứu mạnh, Nhà nước thực hiện định hướng, điều phối, kiến tạo môi trường thể chế, chính sách thuận lợi cho hoạt động hiệu quả của toàn hệ thống; 3- Kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa phát triển năng lực nội sinh với tận dụng tối đa cơ hội, nguồn lực bên ngoài, ưu tiên tiếp thu, hấp thụ, làm chủ và ứng dụng nhanh chóng thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới, đặc biệt là chủ động, tích cực tiếp cận và khai thác triệt để cơ hội và thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng phục vụ thiết thực đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội, đồng thời chú trọng nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng để tiến tới sáng tạo, tự chủ và cạnh tranh về công nghệ ở những lĩnh vực then chốt mà Việt Nam có nhu cầu, tiềm năng và lợi thế(5). Chiến lược cũng khẳng định: KH – CN và ĐMST góp phần quan trọng trong xây dựng, phát triển giá trị văn hóa, xã hội, con người Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước; đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII)…

Khoa học – công nghệ và ĐMST là xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của nước ta. Điều này được thể hiện qua các khía cạnh sau: 

Thứ nhất, KH – CN và ĐMST là động lực cho phát triển kinh tế – xã hội, thúc đẩy sự hình thành và phát triển các ngành, nghề, lĩnh vực mới.

Thứ hai, KH – CN và ĐMST góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; làm thay đổi cơ cấu sản xuất của các ngành, nghề cũng như cơ cấu trong nội bộ từng ngành; theo đó phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn.

Thứ ba, KH – CN và ĐMST phát triển cùng với sự xuất hiện của các công nghệ mới, hiện đại,… góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu vào và làm gia tăng các yếu tố của sản xuất, kinh doanh.

Thứ tư, KH – CN và ĐMST góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Với chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao, nhiều sản phẩm mới được tạo ra với công nghệ tiết kiệm nguyên liệu,… sẽ tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và khu vực, mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững.

Thứ năm, KH – CN và ĐMST tạo ra việc làm mới và thúc đẩy phân công lao động quốc tế, góp phần tạo ra nền sản xuất chung và thị trường chung của thế giới. Sự thay đổi về công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, vận tải đã tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới.

2- Quan niệm về phát triển bền vững, năm 1980, “Chiến lược Bảo tồn thế giới” đưa ra khái niệm “Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người”; và mục tiêu của phát triển bền vững là “đạt được sự phát triển bền vững bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật”. Thuật ngữ phát triển bền vững ở đây được đề cập tới với một nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái, nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật.

Năm 1987, trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban thế giới về Môi trường và phát triển (WCED) của Liên hợp quốc, “phát triển bền vững” được định nghĩa là “sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống cho con người trong quá trình phát triển.

Nội hàm về phát triển bền vững được khẳng định lại ở Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Bra-xin) năm 1992 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Nam Phi) năm 2002: “Phát triển bền vững” là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển, bao gồm phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng, chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).

Như vậy, phát triển bền vững là quá trình vận hành đồng thời ở các bình diện phát triển: kinh tế tăng trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định, văn hóa đa dạng và môi trường được trong lành, tài nguyên được duy trì bền vững. Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát triển bền vững bao gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường(6).

Việt Nam là quốc gia cam kết mạnh mẽ trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững thông qua việc ban hành Định hướng phát triển bền vững Việt Nam năm 2004, Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 và gần đây nhất là Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững có độ bao phủ chính sách rộng lớn, vì lợi ích của mọi người dân trên thế giới, cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Chương trình này đã đưa tầm nhìn cho giai đoạn phát triển 15 năm (2016 – 2030) trên phạm vi toàn cầu với 17 mục tiêu phát triển bền vững và 169 mục tiêu cụ thể, định hướng phương thức thực hiện, các quan hệ đối tác toàn cầu và các hành động triển khai thực hiện. Như vậy, có thể thấy, phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu của toàn cầu.

Việt Nam cũng đã khẳng định chủ trương phát triển KH – CN và ĐMST, ban hành nhiều cơ chế, chính sách tạo thuận lợi cho KH – CN và ĐMST phát triển, có những hành động cụ thể quyết liệt hướng đến các mục tiêu phát triển bền vững. Điều này được thể hiện trong các văn bản của Đảng(7). Hiến pháp năm 2013 khẳng định phát triển KH – CN là quốc sách hàng đầu; KH – CN giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đến nay, Quốc hội cũng đã ban hành nhiều luật chuyên ngành trong lĩnh vực khoa KH – CN(8). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng định hướng cho việc xây dựng các văn bản pháp luật về phát triển KH – CN và ĐMST bảo đảm cho sự phát triền bền vững đất nước.

Nhìn lại chặng đường vừa qua, KH – CN và ĐMST đã đóng góp quan trọng, toàn diện trong phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu được Đảng và Nhà nước giao, từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế – xã hội. Cụ thể, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động nâng lên rõ rệt. Chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011 – 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 – 2020, tính chung 10 năm 2011 – 2020 đạt 39% (vượt mục tiêu 35%). Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020, đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ trong đóng góp của xã hội, nhất là từ khu vực doanh nghiệp với tỷ lệ tương đối cân bằng đầu tư từ ngân sách nhà nước là 52% và từ doanh nghiệp là 48%; thể hiện rõ vai trò và những đóng góp quan trọng của lực lượng doanh nghiệp thông qua hoạt động chú trọng đầu tư nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao và đổi mới công nghệ.

Các doanh nghiệp Việt Nam đã chi khoảng 1,6% doanh thu hằng năm cho hoạt động nghiên cứu và phát triển. Nhiều tập đoàn, doanh nghiệp đã thành lập Quỹ Phát triển KH – CN để đẩy mạnh các hoạt động KH – CN và ĐMST. Việc đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng KH – CN trong các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp đã mang đến diện mạo và sức cạnh tranh mới trên trường quốc tế. Điều đó càng minh chứng cho sự hợp tác công – tư, kết hợp tốt hơn giữa nội lực và ngoại lực trong phát triển KH – CN và ĐMST giải quyết những vấn đề đặt ra từ cuộc sống. Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển KH – CN và ĐMST đã và đang được ngành KH – CN cụ thể hóa, trong đó đặc biệt chú trọng đến phát triển nguồn nhân lực, cơ chế, chính sách phù hợp, vượt trội, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi nhất để các nhà khoa học nghiên cứu, sáng tạo. Những nghiên cứu KH – CN và ĐMST ngày càng bám sát thực tiễn cuộc sống và hoạt động sản xuất, kinh doanh, giải quyết được ngày càng nhiều nhu cầu phát triển toàn diện trên tất cả lĩnh vực: kinh tế, chính trị, khoa học, giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội…

Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo toàn cầu ghi nhận Việt Nam xếp thứ 54, tăng 5 bậc so với năm 2021. Việt Nam hiện nay có 4 “kỳ lân” công nghệ (VNG, VNPAY, Momo, Sky Mavis) khẳng định vị thế trong “tam giác vàng” khởi nghiệp của Đông Nam Á, bên cạnh Xin-ga-po và In-đô-nê-xi-a. Mô hình Techfest (Ngày hội Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia) được lan tỏa và cộng hưởng trên cả nước, với hơn 10 Techfest vùng, địa phương được tổ chức trong năm 2022. Đồng thời, ra mắt nhiều mạng lưới hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo cấp địa phương và cấp vùng cho thấy sự lớn mạnh của hệ sinh thái là kết quả nỗ lực sau 8 năm kể từ lần đầu tiên Việt Nam tổ chức Ngày hội khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Điều này thể hiện trên bảng xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII), trong 12 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả đổi mới sáng tạo cao hơn so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra đổi mới sáng tạo(9).

Những kết quả đạt được trong thời gian qua là sự tiếp nối quan trọng các thành tựu, là nền tảng quan trọng tạo đà phát triển trong giai đoạn mới. Giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tình hình thế giới được dự báo sẽ tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Tăng trưởng kinh tế thế giới và thương mại, đầu tư quốc tế có xu hướng giảm; nợ công toàn cầu tăng, thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế tiềm ẩn nhiều rủi ro. Khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh, đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu. Khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Công nghệ số sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hóa, xã hội. Ở trong nước, nền kinh tế phát triển chưa bền vững, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình là hiện hữu; những đòi hỏi mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… Trong bối cảnh mới đầy khó khăn, thách thức đó cần đổi mới tư duy phát triển, đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, nâng cao vai trò KH – CN và ĐMST trong phát triển bền vững đất nước.

Trung tâm Bloom – trung tâm khơi nguồn sáng tạo và xúc tiến đổi mới toàn cầu đầu tiên tại Việt Nam (vốn đầu tư Thủy Điển) chính thức đưa vào vận hành tại Khu Công nghiệp Việt Nam-Singapore IIA, tháng 7-2023_Ảnh: TTXVN

Để KH – CN và ĐMST đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững, trong thời gian tới, cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục quán triệt các nội dung KH – CN và ĐMST đã được nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030.

Hai là, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về KH – CN và ĐMST, trong đó chú trọng đến việc xây dựng thể chế vượt trội và chấp nhận rủi ro trong hoạt động KH – CN và ĐMST.

Ba là, tăng cường nguồn lực xã hội đầu tư cho KH – CN và ĐMST nhất là từ doanh nghiệp; chú trọng phát triển khoa học xã hội và nhân văn; gắn kết chặt chẽ, đồng bộ khoa học xã hội và nhân văn với khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ phục vụ phát triển nhanh và bền vững đất nước; tiếp tục đầu tư để phát triển, hiện đại hóa hạ tầng và tiềm lực KH – CN và ĐMST.

Bốn là, phát triển nhân lực KH – CN, khuyến khích khu vực tư nhân và các doanh nghiệp tham gia đào tạo nhân lực KH – CN; tăng cường cơ chế hợp tác công – tư trong đào tạo nhân lực KH – CN. Nghiên cứu, hoàn thiện chính sách thu hút, trọng dụng cá nhân hoạt động KH – CN và ĐMST, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tại Việt Nam.

Năm là, phát triển tổ chức KH – CN công lập theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động KH – CN và ĐMST. Thúc đẩy các hoạt động phối hợp giữa tổ chức KH – CN với doanh nghiệp trong thực hiện các nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.

Sáu là, phát triển thông tin KH – CN và ĐMST. Theo đó, thúc đẩy sử dụng dữ liệu dùng chung, chia sẻ, mở theo hướng đa ngành, liên ngành và xuyên ngành để nâng hiệu quả đầu ra của các hoạt động nghiên cứu và phát triển. Khuyến khích xây dựng và phát triển khoa học mở.

Bảy là, bảo hộ, thực thi phát triển và khai thác tài sản trí tuệ phù hợp với các hiệp định thương mại mới; xây dựng các văn bản hướng dẫn bảo đảm hiệu quả việc thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, khắc phục tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; thực hiện đồng bộ các giải pháp để tăng nhanh hơn nữa tiến độ xử lý đơn, khắc phục tình trạng tồn đọng đơn.

Tám là, phát triển thị trường KH – CN và hợp tác quốc tế theo hướng lựa chọn đối tác chiến lược trên cơ sở gắn kết chặt chẽ giữa hợp tác về KH – CN và ĐMST với hợp tác về kinh tế, quốc phòng để xây dựng nội dung hợp tác, ký kết các thỏa thuận song phương và đa phương, chú trọng chuyển giao công nghệ phù hợp phục vụ các mục tiêu phát triển quốc gia, ngành, vùng, địa phương./.

Mai Hương Giang // https://www.tapchicongsan.org.vn/

—————————–

(1) Xem: Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 1-11-2012, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xi/nghi-quyet-so-20-nqtw-ngay-01112012-hoi-nghi-lan-thu-6-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-ve-phat-trien-khoa-hoc-va-576

(2), (3) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 115, 227

(4) Xem: Văn Kiên: “Đến năm 2023, cả nước phải có ít nhất 5.000 km đường cao tốc”, Báo Điện tử Tiền phong, ngày 10-8-2022, https://tienphong.vn/den-nam-2030-ca-nuoc-phai-co-it-nhat-5000-km-duong-cao-toc-post1460413.tpo
(5) Xem: Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Quyet-dinh-569-QD-TTg-2022-Chien-luoc-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-512896.aspx
(6) Xem: Phạm Thị Thanh Bình: “Phát triển bền vững: Nhận thức, kết quả và vấn đề đặt ra”, Trang Thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương, ngày 12-4-2023, https://hdll.vn/vi/nghien-cuu—trao-doi/phat-trien-ben-vung-nhan-thuc-ket-qua-va-van-de-dat-ra.html
(7) Chẳng hạn như Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 20-4-1981, của Bộ Chính trị về “Chính sách khoa học và kỹ thuật”; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 30-3-1991, của Bộ Chính trị về “Khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới”; Nghị quyết số 02-NQ/HNTW, ngày 24-12-1996, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Định hướng chiến lược phát triển  khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”; Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 1-11-2012, của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; Kết luận số 50-KL/TW, ngày 30-5-2019, của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã bổ sung các nội hàm mới, như “Đổi mới sáng tạo”, “Khởi nghiệp sáng tạo”…; Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” nêu rõ vai trò quan trọng của KH – CN và ĐMST đối với phát triển kinh tế, xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và quá trình chuyển đổi số quốc gia; Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh vai trò của KH – CN và ĐMST; Hiến pháp năm 2013 khẳng định phát triển KH – CN là quốc sách hàng đầu; KH – CN giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước

(8) Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2013; Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006; Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa năm 2007; Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008; Luật Công nghệ cao năm 2008; Luật Đo lường năm 2011; Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013; Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006, được thay thế bởi Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017

(9) Xem: Khánh Nguyễn: “Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo khẳng định vị thế Việt Nam trong khởi nghiệp”, Báo Điện tử VTV News, ngày 28-12-2022, https://vtv.vn/cong-nghe/khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-khang-dinh-vi-the-viet-nam-trong-khoi-nghiep-20221228181638004.htm

Views: 373

The post Phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
8 nhiệm vụ trọng tâm của ngành Khoa học và Công nghệ năm 2024 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/8nhiem-vu-trong-tam-cua-nganh-khcn.html Wed, 27 Mar 2024 08:51:31 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=26151 Thông tin tuyên truyền: Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2024 8 NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CỦA NGÀNH

The post 8 nhiệm vụ trọng tâm của ngành Khoa học và Công nghệ năm 2024 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2024

8 NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CỦA NGÀNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NĂM 2024

Xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; triển khai Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030; tập trung hoàn thiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học công nghệ… là một trong 8 nhiệm vụ trọng tâm của ngành Khoa học và Công nghệ năm 2024.

Ảnh minh họa. Nguồn: Bích Liên

Theo Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Huỳnh Thành Đạt, năm 2023 ghi dấu ấn nhiều kết quả của các hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ở các lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn, tự nhiên, công nghệ sinh học, nông nghiệp, an ninh quốc phòng, khoa học y dược, công nghệ cao. Khoa học năm 2023 có nhiều “điểm sáng”, dù khoa học công nghệ vốn không phải là lợi thế của Việt Nam, chưa có đủ nguồn lực và cơ chế đủ mạnh để phát triển, thậm chí cơ chế còn là rào cản phát triển.

Tiếp tục triển khai hiệu quả các hoạt động về lĩnh vực KH&CN, trong năm 2024, ngành KH&CN sẽ tập trung triển khai các chương trình, kế hoạch về hoạt động đổi mới sáng tạo. Đây là năm “tăng tốc, bứt phá” thực hiện các mục tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025. Theo đó, có 8 nhiệm vụ trọng tâm Bộ KH&CN sẽ triển khai trong năm 2024:

Thứ nhất, triển khai hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về lĩnh vực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học.

Tại Nghị quyết 36 xác định mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam có nền công nghệ sinh học đạt trình độ tiên tiến thế giới trên một số lĩnh vực quan trọng. Việt Nam trở thành một trong 10 nước hàng đầu châu Á về sản xuất và dịch vụ thông minh công nghệ sinh học; đưa vào ứng dụng trong các ngành, góp phần phát triển kinh tế, xã hội. Đến năm 2045, Việt Nam sẽ có nền công nghệ sinh học phát triển trên thế giới, trung tâm sản xuất và dịch vụ thông minh; khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo về công nghệ sinh học thuộc nhóm dẫn đầu khu vực châu Á.

Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, trong đó tập trung sửa đổi quy định về đầu tư, cơ chế tài chính và xử lý tài sản đối với các hoạt động khoa học công nghệ.

Bộ Khoa học và Công nghệ sửa đổi, bổ sung các dự thảo Luật thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ: Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Khoa học và công nghệ; Chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Năng lượng nguyên tử. 4 nghị định sẽ được sửa đổi bổ sung, tháo gỡ khó khăn, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động khoa học công nghệ. Nhiệm vụ này nhằm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế tài chính, xây dựng cơ chế đặc thù, chấp nhận rủi ro và độ trễ trong nghiên cứu khoa học.

Thứ ba, triển khai Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030. Triển khai các Chương trình, nhiệm vụ khoa học cấp quốc gia trung hạn đến năm 2025 và dài hạn đến năm 2030. Xác định rõ những công nghệ trọng điểm, công nghệ lõi, công nghệ cao cần ưu tiên phát triển dựa trên thế mạnh, thực tiễn của Việt Nam; đổi mới cách xác định và triển khai các nhiệm vụ phục vụ, sản phẩm quốc gia, sản phẩm trọng điểm, sản phẩm chủ lực của địa phương.

Thứ tư, Bộ KH&CN tập trung hoàn thiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học công nghệ. Cơ chế tự chủ của các tổ chức công lập đang theo quy định tại Nghị định 60 (năm 2021) còn gặp nhiều bất cập, chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động khoa học công nghệ, gây khó khăn cho quản lý. Vấn đề nhân lực khoa học công nghệ đã đề cập trong Luật Khoa học công nghệ 2013 song vẫn thiếu quy định gắn kết giữa đào tạo giáo dục đại học với hoạt động nghiên cứu, dẫn tới chưa thúc đẩy được các tổ chức có năng lực tự chủ. Do đó việc hoàn thiện cơ chế nhằm thúc đẩy tự chủ, gỡ bỏ các rào cản hành chính.

Thứ năm, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo quốc gia; thị trường khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ; thẩm định công nghệ dự án đầu tư.

Thứ sáu tập trung các giải pháp hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ và đẩy mạnh đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động. Đồng thời có các giải pháp đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ; thẩm định công nghệ dự án đầu tư; kiểm soát dự án đầu tư sử dụng công nghệ hạn chế chuyển giao; xác định dự án đầu tư sử dụng công nghệ lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, thâm dụng tài nguyên khi hết thời hạn hoạt động.

Thứ bảy, đẩy mạnh các hoạt động về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng hỗ trợ nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa; bảo hộ, thực thi quyền sở hữu công nghiệp, khai thác tài sản trí tuệ, ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình.

Thứ tám, đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với xây dựng Chính phủ điện tử hướng đến Chính phủ số; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học công nghệ./.

Views: 372

The post 8 nhiệm vụ trọng tâm của ngành Khoa học và Công nghệ năm 2024 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Lịch sử, ý nghĩa Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/ngay-khoa-hoc-va-cong-nghe-18-5.html Wed, 27 Mar 2024 08:15:24 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=26144 Thông tin tuyên truyền: Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2024 LỊCH SỬ, Ý NGHĨA NGÀY KHOA

The post Lịch sử, ý nghĩa Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2024

LỊCH SỬ, Ý NGHĨA NGÀY KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM 18/5

Ngày 18 tháng 5 được xem là cột mốc có ý nghĩa lịch sử đặc biệt quan trọng không chỉ với giới trí thức Khoa học và Công nghệ Việt Nam mà còn trở thành động lực then chốt của sự nghiệp đổi mới và phát triển.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bài phát biểu tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội Phổ biến khoa học và kỹ thuật Việt Nam ngày 18/5/1963. (Ảnh tư liệu)

Tại Đại hội Đại biểu Hội Phổ biến khoa học và kỹ thuật Việt Nam toàn quốc lần thứ nhất (tiền thân của Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam) ngày 18/5/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ đến dự và chúc mừng.

Tại sự kiện, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài phát biểu, tổng kết những luận điểm quan trọng nhất về phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta, đồng thời giao nhiệm vụ vừa khó khăn, nhưng lại vừa vinh quang cho giới trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam

Người khẳng định: “Chúng ta đều biết rằng trình độ khoa học và công nghệ của ta hiện nay còn thấp kém. Lề lối sản xuất chưa cải tiến được nhiều. Cách thức làm việc còn nặng nhọc. Năng suất lao động còn thấp… Nhiệm vụ của khoa học là ra sức cải biến những cái đó… Khoa học phải tự sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi… Các cô, các chú phải ra sức đem hiểu biết khoa học và kỹ thuật của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động, để nhân dân thi đua sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ…”.

Lời căn dặn ngắn gọn, súc tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nay vẫn còn nguyên giá trị, thể hiện tầm nhìn chiến lược sâu rộng, tư tưởng lớn của Người đối với định hướng phát triển lâu dài của nền Khoa học và Công nghệ nước nhà.

Học tập và lĩnh hội tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để nêu cao tinh thần, trách nhiệm của cộng đồng xã hội đối với sự nghiệp khoa học công nghệ, tôn vinh quá trình lao động, sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức Việt Nam. Đến ngày 18/6/2013, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII, Luật Khoa học và Công nghệ được thông qua, thống nhất chọn ngày 18 tháng 5 hàng năm là Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Mục tiêu của Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam nhằm tuyên truyền rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ; tôn vinh những người làm khoa học, giới thiệu các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất; nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của khoa học và công nghệ; động viên thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh, sinh viên say mê nghiên cứu khoa học, góp phần xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ.

Hằng năm, vào ngày này sẽ có nhiều hoạt động được tổ chức, và là dịp để nâng cao nhận thức và khơi dậy niềm tự hào về trí tuệ Việt Nam, tinh thần đam mê lao động sáng tạo trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam trong xây dựng và phát triển đất nước.

Uyên Linh // https://baodautu.vn/

Views: 0

The post Lịch sử, ý nghĩa Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thời kỳ hội nhập quốc tế https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/bao-ho-quyen-so-huu-tri-tue.html Fri, 13 May 2022 09:24:47 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=14832 Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thời kỳ hội nhập quốc tế. – Bình Thuận : Sở khoa

The post Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thời kỳ hội nhập quốc tế appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thời kỳ hội nhập quốc tế. – Bình Thuận : Sở khoa học và công nghệ Bình Thuận, 2012. – 6tr. ; 20cm
Tóm tắt: Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ. Nội dung của việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ và những lợi ích khi đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở nước ta.
Kho Địa Chí: DC.000871
Sách hiện có tại Thư viện tỉnh Bình Thuận

Views: 372

The post Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thời kỳ hội nhập quốc tế appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>