Hồ Chí Minh Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/ho-chi-minh Cổng Vào Tri Thức Fri, 27 May 2022 01:34:19 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/wp-content/uploads/2024/12/cropped-logotvbt-32x32.png Hồ Chí Minh Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/ho-chi-minh 32 32 Giá trị và ý nghĩa hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/gia-tri-va-y-nghia-hanh-trinh-ra-di-tim-duong-cuu-nuoc-cua-nguyen-tat-thanh-ho-chi-minh.html Fri, 27 May 2022 01:33:59 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=15133 Giá trị và ý nghĩa hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí

The post Giá trị và ý nghĩa hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>

Giá trị và ý nghĩa hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh. – Bình Thuận : Công ty Cổ phần In và Bao bì Bình Thuận, 2021. – 295tr ; 21cm.

Tóm tắt: Tập hợp các bài viết nêu bật vai trò, ý nghĩa của sự kiện Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước vào 5/6/1911, nhằm tuyên truyền giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần cách mạng, lòng tự hào dân tộc.

Kho Địa Chí: DC.001202, DC.001203
Sách hiện có tại Thư viện tỉnh Bình Thuận

 

Views: 377

The post Giá trị và ý nghĩa hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
50 bản thông đạt của Bác Hồ và những vấn đề đặt ra cho công tác lưu trữ https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/50-ban-thong-dat-cua-bac-ho-va-nhung-van-de-dat-ra-cho-cong-tac-luu-tru.html Thu, 28 Apr 2022 07:30:42 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=14342 Cách đây vừa đúng 50 năm, ngày 3/1/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi cho Bộ trưởng thuộc Chính

The post 50 bản thông đạt của Bác Hồ và những vấn đề đặt ra cho công tác lưu trữ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Cách đây vừa đúng 50 năm, ngày 3/1/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi cho Bộ trưởng thuộc Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lúc đó một bản Thông đạt mang số 1C-VP về công tác lưu trữ các công văn tài liệu, yêu cầu chấn chỉnh công tác này của các cơ quan.

Trong 50 năm qua, cùng với sự phát triển của Nhà nước cách mạng Việt Nam, công tác lưu trữ của nước nhà đã có nhiều bước tiến đáng kể. Đảng và Nhà nước ta đã có những quan tâm to lớn đến công tác lưu trữ cũng như đối với các hoạt động khác của bộ máy quản lý Nhà nước trong thời chiến cũng như trong thời bình. Cùng với Pháp lệnh về bảo vệ an toàn tài liệu lưu trữ quốc gia công bố năm 1982, trước và sau đó nhiều văn bản quan trọng khác cũng đã được ban hành làm nền tảng cho sự phát triển công tác lưu trữ và công tác công văn giấy tờ của nước ta. Trong hoạt động thực tiễn, nhiều trung tâm lưu trữ Nhà nước đã được xây dựng. Một đội ngũ cán bộ chuyên môn dần dần đã được đào tạo ở đủ mọi cấp để đảm đương các nhiệm vụ do thực tế đặt ra. Các trung tâm bảo quản tài liệu lưu trữ đã từng bước hình thành cả ở Trung ương và địa phương. Tài liệu lưu trữ ngày càng được sử dụng có hiệu quả vào hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước cũng như trong lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Công tác lưu trữ Việt Nam đang vươn ra để hoà nhập dần với hoạt động lưu trữ của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Nhìn lại 50 năm qua, điều đáng nói là ngay từ ngày những bước đi đầu tiên của mình, nền lưu trữ cách mạng của nước ta đã đi theo đúng tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Thông đạt số 1C-VP. Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng một văn bản hết sức ngắn gọn, đã nêu lên những tư tưởng chiến lược và những yêu cầu cấp bách cho công tác bảo vệ, sử dụng tài liệu lưu trữ, mà cho đến hôm nay vẫn còn nguyên tính thời sự. Trước những việc làm sai trái của một số cán bộ lúc đó “tự huỷ bỏ hay bán các công văn và hồ sơ cũ”(1), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng đó là hành động “có tính cách phá hoại, vì nó làm mất những tài liệu có giá trị đặc biệt về phương diện kiến thiết quốc gia”. Người chỉ thị không được tiêu huỷ tài liệu nếu không có lệnh trên rõ rệt cho phép và phải nghiêm trị những viên chức trái lệnh.

Trong lịch sử các văn bản pháp quy về công tác lưu trữ của nước ta, có thể nói chưa có văn bản nào ngắn gọn mà chứa đựng những tư tưởng và chiến lược như bản Thông đạt số 1C-VP. Nó đặt ra nền móng cho một nhận thức toàn diện về mục đích cuối cùng của công tác lưu trữ, về tầm quan trọng của tài liệu lưu trữ đối với tiền đồ đất nước mà chính quyền cách mạng không thể không quan tâm. Cần nói rằng bản Thông đạt số 1C-VP được Bác Hồ ký vào thời điểm rất khó khăn của Nhà nước cách mạng non trẻ, sự sống còn của nền độc lập vừa giành lại của nước ta lúc đó đang ngàn cân treo sợi tóc. Đặt vào tình huống đó, chúng ta sẽ thấy rõ mối quan tâm của người đứng đầu đất nước với công tác lưu trữ ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám mới thành công to lớn đến chừng nào. Nửa thể kỷ đã đi qua kể từ lúc đó, nếu chúng ta biết rằng ngày nay không phải mọi người, kể cả nhiều cán bộ phụ trách các ngành, các cấp đã hiểu rõ ý nghĩa của tài liệu lưu trữ, đã nêu cao được trách nhiệm và quan tâm thật sự đến công tác lưu trữ, thì quả thật hơn ai hết Bác Hồ là người luôn luôn nhìn xa và lường trước được mọi vấn đề, kể cả những vấn đề rất cụ thể.

Là một nhà văn hoá kiệt xuất, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại và văn hoá Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rất rõ rằng không một sự phát triển nào trước mắt cũng như lâu dài lại có thể tách rời quá khứ. Càng phát triển thì lại càng phải dựa vào những thành tựu của quá khứ để lại. Lịch sử phát triển của nền văn minh nhân loại và của chính nước ta đã không chỉ một lần chứng tỏ chân lý đó. Từ đó chúng ta hoàn toàn hiểu được vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lo lắng đến như vậy khi biết nhiều cán bộ của Nhà nước mới đốt hoặc bán đi các tài liệu và hồ sơ cũ. Về phương diện văn minh, đó cũng có thể xem là những hành động bạo tàn cần nghiêm khắc cảnh cáo và ngăn chặn kịp thời . Ngăn chặn các hành động đó chính là tạo một tiền đề quan trọng cho việc kiến thiết quốc gia. Dĩ nhiên, muốn tài liệu lưu trữ trở thành một tiềm năng của công cuộc kiến thiết quốc gia thì phải làm nhiều việc: phải lựa chọn, đánh giá chúng, phải tổ chức bảo quản và sử dụng hợp lý từng loại tài liệu. Càng bước vào thời kỳ đổi mới như hiện nay, chúng ta càng thấy những tư tưởng, quan niệm do Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra từ năm 1946 về công tác lưu trữ là chính xác và hết sức sáng suốt. Chúng ta đã vượt qua thời gian và đòi hỏi phải tiếp tục quán triệt, vận dụng cho mọi thời kỳ.

Nghiên cứu những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn xây dựng Nhà nước và cải cách nền hành chính hiện nay có thể thấy một số nhiệm vụ của ngành lưu trữ Việt Nam nổ lên như sau:

Trước hết, và có tầm quan trọng đặc biệt, đó là việc xây dựng một hệ thống văn bản pháp quy hoàn chỉnh về công tác lưu trữ. Đến nay ngành lưu trữ Việt Nam vẫn hoạt động nghiệp vụ theo một bản điều lệ được công bố năm 1963 bằng Nghị định 142/CP. Chúng ta chưa có một điều lệ thay đổi để bổ sung hoặc thay thế điều lệ cũ cho phù hợp với những yêu cầu mới của đất nước sau bao nhiêu năm biến đổi lịch sử. Đó là một điều quá chậm. Nhiều điều trong bản Pháp lệnh đã nhắc đến ở trên cũng chưa được hướng dẫn và thực hiện tốt. Chưa nói rằng đã đến một thời điểm mà muốn bảo vệ thật sự tài liệu lưu trữ quốc gia an toàn và sử dụng chúng có hiệu quả vào công cuộc kiến thiết nước nhà như Bác Hồ đã nhắc nhở cách đây nửa thế kỷ, thì chúng ta cần phải có luật về công tác lưu trữ. Điều này nhiều nước khác trên thế giới đã làm từ lâu. Chúng ta dù sớm muộn nhất định sẽ phải làm. Làm càng sớm thì hiệu quả của việc bảo vệ và sử dụng tài liệu lưu trử càng sớm được phát huy. Làm càng muộn thì khả năng mất mát càng lớn.

Thứ hai là chúng ta cần có một hệ thống tổ chức hợp lý, đủ mạnh, một chính sách bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng hợp lý cán bộ lưu trữ trong các cơ quan của bộ máy Nhà nước cũng như của các tổ chức kinh tế xã hội khác. Hệ thống tổ chức lưu trữ của ta đã được nói đến từ lâu và bước đầu chúng ta cũng đã xây dựng được một số trung tâm. Tuy nhiên, trừ một vài cơ sở ở trung ương và một số địa phương lớn, đến nay hệ thống đó của chúng ta vẫn còn rất không đồng bộ. Công tác chỉ đạo của các cơ quan còn quá hạn chế nên tài liệu tại các cơ sở lưu trữ thì ít, nhất là lại thiếu một chính sách sử dụng hợp lý đối với loại cán bộ nghiệp vụ này. Dù muốn dù không, nhưng điều đó thực tế đã cản trở sự phát triển công tác lưu trữ của nước ta. Muốn phát triển công tác này một cách bền vững đây cũng là điều cấp bách phải quan tâm giải quyết.

Thứ ba là chúng ta hiện rất thiếu các tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể và hàng loạt khâu trong công tác lưu trữ. Cũng không nên trách cứ nhiều đến cán bộ của các cơ quan nếu thật sự đứng trước một khối lượng văn bản khổng lồ họ không biết sẽ lựa chọn như thế nào cho đúng để bảo quản và sử dụng cho tốt. Có phương pháp nào là tốt, là khoa học để thu nhận tối ưu các thông tin lưu trữ? Để bảo quản và sử dụng dễ dàng các tài liệu, nhất là trong tình hình hiện nay? Đó là những câu hỏi cần phải có sự nghiên cứu và trả lời thoả đáng.

Cuối cùng, chúng ta sẽ phải đầu tư kỹ thuật, ững dụng các tiến bộ mới của công nghệ hiện đại vào việc tổ chức công tác lưu trữ của đất nước một cách hợp lý. Điều này nhiều nước quan ta và trên thế giới đã làm và có nhiều kinh nghiệm. Nếu khoong sớm đầu tư chúng ta sẽ tiếp tục tụt hậu, sẽ nhập mà không hoà được với thế giới đương đại.

Những vấn đề trên nếu làm tốt thì đó sẽ có thể là cách tốt nhất để biến tư tưởng của Bác Hồ trong Thông đạt số 1C-VP ngày 3-1-1946 thành hiện thực. Đất nước sẽ có thêm hy vọng giữ gìn được nhiều di sản lưu trữ cho đời sau, và trước mắt cho công cuộc xây dựng lại nước nhà.

          PGS. Nguyễn Văn Thâm                                                 

 (Học viện Hành chính quốc gia)

Báo Nhân Dân, số ra ngày 03-01-1996, tr. 3.

 

 

Views: 10856

The post 50 bản thông đạt của Bác Hồ và những vấn đề đặt ra cho công tác lưu trữ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Tuyên ngôn độc lập và Nhà nước pháp quyền https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tuyen-ngon-doc-lap-va-nha-nuoc-phap-quyen.html Thu, 23 Dec 2021 02:45:41 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=11852 Cách đây 76 năm (2/9/1945-2/9/2021), tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản

The post Tuyên ngôn độc lập và Nhà nước pháp quyền appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Cách đây 76 năm (2/9/1945-2/9/2021), tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là văn bản có giá trị lịch sử, không chỉ là lời tuyên bố đanh thép của một dân tộc vừa giành lại nền độc lập của mình, mà còn là cơ sở để dân tộc ấy xây dựng “Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân” đầu tiên ở châu Á.

“Hỡi đồng bào cả nước,

Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Vang vọng mãi là những lời bất hủ của bản Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng công bố với quốc dân, đồng bào và toàn thế giới ngày 2/9/1945!

Đã 76 năm trôi qua kể từ ngày 2/9 năm ấy. Có biết bao biến động, biết bao thử thách khôn cùng mà dân tộc ta đã phải vượt qua để hiện thực hóa những tư tưởng vĩ đại chứa đựng trong bản Tuyên ngôn độc lập. Một trong những tư tưởng vĩ đại đó chính là tư tưởng pháp quyền. Và tư tưởng pháp quyền này được thể hiện cô đọng nhất, sáng tỏ nhất trong những lời mở đầu của bản Tuyên ngôn độc lập. Cụ thể, các quyền của con người là do Tạo hóa ban cho. Trong các quyền này, cơ bản nhất là quyền được sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhà nước sinh ra để bảo vệ các quyền nói trên được gọi là Nhà nước pháp quyền.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền là một quá trình khó khăn cả về phương diện nhận thức lẫn phương diện thực hành trong cuộc sống. Một nhà nước quá mạnh có thể xâm hại các quyền của người dân, nhưng một nhà nước quá yếu lại không bảo vệ được các quyền đó. Trong tình hình dịch bệnh bùng phát như hiện nay, quả thực chúng ta cần có một nhà nước mạnh, một nhà nước có thể phản ứng nhanh chóng và hiệu quả để bảo vệ một trong những quyền cơ bản nhất của người dân. Đó là quyền được sống.

Hình ảnh xông xáo, quyết đoán của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trong việc chỉ đạo và kiểm tra hoạt động phòng chống dịch là sự phản ánh trên thực tế của một nhà nước pháp quyền mạnh. Tuy nhiên, trong đời sống bình thường, nhà nước bị pháp luật điều chỉnh chặt chẽ mọi hành vi của mình. Sự kiểm soát của pháp luật đối với quyền lực của nhà nước chính là phần cấu thành quan trọng thứ hai của tư tưởng pháp quyền.

Chính tư tưởng pháp quyền đã biến cuộc Cánh mạng tháng Tám 1945 của chúng ta thành cuộc cách mạng vì tự do, dân chủ. Những cố gắng to lớn của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền hôm nay là một sự tiếp nối tự nhiên của cuộc cách mạng vĩ đại nói trên.

Trước hết, các quyền tự do của người dân đang được bảo đảm ngày một nhiều hơn. Nhà nước pháp quyền không làm thay dân, mà tạo khuôn khổ thể chế và mọi điều kiện cần thiết khác để từng người dân có thể mưu cầu hạnh phúc. Khi và chỉ khi hàng triệu người dân Việt Nam có điều kiện làm ăn dễ dàng, có năng lực làm chủ cuộc sống và sáng tạo tương lai thì sự giàu có và thịnh vượng bền lâu mới đến với đất nước ta.

Đáng ghi nhận là những cố gắng rất lớn để xây dựng những khuôn khổ thể chế cần thiết để cho công việc làm ăn của người dân ngày một dễ dàng hơn. Quan trọng nhất ở đây là quyền tự do kinh doanh, quyền tự do tài sản, quyền tự do khế ước… cần được bảo đảm ngày một nhiều hơn; quan hệ hợp đồng được tôn trọng và bảo vệ; các tranh chấp được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả.

Ngoài ra, Nhà nước còn phải cố gắng nhiều hơn để cắt giảm chi phí làm ăn cho người dân; đồng thời trả lại cho xã hội những chức năng mà xã hội có thể đảm nhận tốt hơn. Xã hội hóa là một bước đi cụ thể theo hướng này. Chúng ta thúc đẩy xã hội hóa không chỉ để huy động các nguồn lực to lớn từ xã hội, mà còn để trả lại cho xã hội những chức năng, những công việc mà xã hội có thể làm tốt hơn. Ngoài ra, để xây dựng một bộ máy nhà nước gọn nhất có thể, chúng ta còn cần phải làm cho bộ máy hoạt động chuyên nghiệp hơn, hiệu quả hơn.

Về dân chủ, Nhà nước pháp quyền là một nhà nước biết làm cho người dân trở nên thực sự có quyền lực. Mở rộng dân chủ, bảo đảm sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định chính sách là rất quan trọng. Chỉ có mở rộng dân chủ, chúng ta mới có thể xác lập được chế độ trách nhiệm trước dân và hệ thống khuyến khích phục vụ nhân dân. Chỉ có bảo đảm sự tham gia đầy đủ của người dân, chúng ta mới có thể làm cho chính sách, pháp luật gần với cuộc sống hơn, phản ánh đúng ý nguyện và lợi ích của người dân hơn.

Nhà nước pháp quyền là một nhà nước tuân thủ pháp luật. Pháp luật trước hết ràng buộc Nhà nước và các cơ quan công quyền. Người dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, nhưng quan chức Nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Từ việc xây dựng dự án, đề ra chính sách đến việc thực thi pháp luật, các cán bộ Nhà nước đều cần bảo đảm một cách chắc chắn rằng pháp luật cho phép họ làm như vậy. Trước khi hành động, mọi cơ quan công quyền, mọi công chức thực thi công vụ đều phải chỉ ra được điều luật cho phép họ hành động. Việc áp dụng các chế tài của pháp luật theo hướng nặng với dân, mà nhẹ với quan là không đáp ứng được các chuẩn mực của Nhà nước pháp quyền.

Nhà nước pháp quyền thúc đẩy phát triển bằng việc tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh để tất cả mọi chủ thể trong xã hội đều phải vươn lên và để thu hút được người tài. Thúc đẩy cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước và kiểm soát nghiêm ngặt những doanh nghiệp còn chiếm giữ vị thế độc quyền là rất quan trọng. Độc quyền không chỉ dẫn đến lạm quyền, mà còn làm cho hoạt động kinh tế kém hiệu quả và xã hội kém năng động.

Một cơ chế để người tài được tuyển chọn cũng hết sức quan trọng. Một phần của cơ chế này là áp đặt chế độ trách nhiệm rất rõ ràng, để những người đứng đầu bắt buộc phải chọn cho được người tài (không chọn được người tài không thể hoàn thành được công việc). Tất nhiên, cũng phải trao quyền tuyển chọn cho những quan chức này.

Nhà nước pháp quyền là một Nhà nước biết bảo đảm sự minh bạch và trách nhiệm giải trình. Các phiên chất vấn, giải trình trước Quốc hội và hoạt động tranh luận ở Quốc hội là những công cụ hết sức quan trọng ở đây. Chúng làm cho chính sách và hành động của các cơ quan Nhà nước trở nên rõ ràng, minh bạch. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp cung cấp cho các quan chức Nhà nước những diễn đàn hết sức quan trọng và hiệu quả để giải trình không chỉ với các vị đại biểu, mà còn với đông đảo nhân dân.

Biết sử dụng các diễn đàn này để giải trình, để làm cho các quyết định và chính sách trở nên minh bạch là một kỹ năng quan trọng đối với tất cả các chính khách và lãnh đạo các cấp. Ngoài ra, giải trình trực tiếp với nhân dân cũng rất quan trọng. Các cuộc họp báo, các chương trình giao lưu trực tuyến qua các cổng thông tin điện tử là những cố gắng cụ thể theo hướng này.

Những tư tưởng vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và của Bản tuyên ngôn độc lập đã, đang và sẽ tiếp tục dẫn dắt dân tộc ta đi về phía trước.

Nguồn tin: doanthanhnien.vn

(Sưu tầm)

Views: 0

The post Tuyên ngôn độc lập và Nhà nước pháp quyền appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Bác Hồ với công tác phê bình https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/bac-ho-voi-cong-tac-phe-binh.html Fri, 17 Dec 2021 04:34:22 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=11679 Hàng năm và bất cứ cuộc vận động lớn nào, Đảng ta đều quan tâm nhấn mạnh đến công tác

The post Bác Hồ với công tác phê bình appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>

Hàng năm và bất cứ cuộc vận động lớn nào, Đảng ta đều quan tâm nhấn mạnh đến công tác phê bình (phê bình và tự phê bình). Đó là công việc thường xuyên để xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Song, công tác phê bình cũng còn nhiều chuyện để bàn và để…phê bình

Đánh giá về tình trạng này, Đại hội X của Đảng ta nhận xét công tác phê bình “chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa tạo được chuyển biến cơ bản”. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đang triển khai sâu rộng với nhiều cuộc thi quy mô, trong đó làm theo tấm gương phê bình của Bác Hồ là điều cần suy ngẫm.
Chuyện kể rằng: Vào đầu những năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định hằng tháng, vào ngày 30 và ngày rằm âm lịch, mời các Ủy viên Bộ Chính trị đến nhà sàn trong Phủ Chủ tịch để ăn bánh, uống chè, và tiến hành tự phê bình, phê bình; bắt đầu từ Chủ tịch. Làm được mấy lần, nhưng sau không tiếp tục được, vì các Ủy viên Bộ Chính trị… không hào hứng. Đó là một sự kiện đáng nhớ- một sự thật lịch sử.       
Nhân kể lại chuyện của Bác và tìm hiểu trong các trước tác của Người về công tác phê bình- một chuyện không mới, nhưng luôn luôn mang tính thời sự và có ý nghĩa to lớn để xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị không ngừng lớn mạnh để làm tròn sứ mệnh của mình trước nhân dân.          
1. Trước hết, mục đích của phê bình:          
Vẫn biết chuyện phê bình nhằm mục đích duy nhất là cùng tiến bộ. Song, càng đọc những lời dạy và những cảnh báo của Bác, càng thấm thía tính nhân văn, ý nghĩa sâu xa của công tác phê bình. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình nhằm cốt để tự sửa mình và giúp nhau sửa chữa những khuyết điểm, thiếu sót, bảo đảm cho công việc ngày một tốt hơn. Tự phê bình là “tiên trách kỷ”, là ren mình. Phê bình là “hậu trách nhân”, là giúp nguời khác thấy sai mà sửa. Công tác phê bình còn giải quyết vấn đề mất đoàn kết nội bộ, làm cho nội bộ hiểu nhau hơn, thống nhất hơn. Qua mỗi lần phê bình, tổ chức Đảng tốt lên, tình đồng chí càng thấm đượm. Và từ đó, công việc ngày càng tiến bộ.          
Bác Hồ nói: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có  rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.  Như vậy, công tác phê bình là đoàn kết, là tình đồng chí, là tình đồng nghiệp….  
Bác dạy: “Muốn đoàn kết chặt chẽ là phải thật thà tự phê bình, thành khẩn phê bình đồng chí và những người xung quanh,  phê bình, tự phê bình để cùng nhau tiến bộ, để đi đến càng đoàn kết. Ðoàn kết, phê bình, tự phê bình thật thà để đi đến đoàn kết hơn nữa’. Xác định đúng mục đích tự phê bình và phê bình không dễ. Trong thực tế, đã có không ít tổ chức đảng sau khi tiến hành tự phê bình và phê bình thì tổ chức vốn đang yên đang lành thì lại bị kém nát, mất đoàn kết thêm. Như vậy là không đạt mục đích.
Để đạt mục đích, cần phải thường xuyên thực hiện công tác phê bình. Còn “nếu để sai lầm, khuyết điểm trở nên to tát rồi mới đem ra “chỉnh” một lần, thế là “đập” cán bộ. Cán bộ bị “đập”, mất cả lòng tự tin, người hăng hái cũng hoá thành nản chí, từ nản chí đi đến vô dụng”.. Làm như vậy là không đạt mục đích của công tác phê bình, không vì sự tiến bộ, mà nguy hiểm hơn còn mất dần đảng viên, cán bộ.

2. Phải thật thà, trung thực, thẳng thắn,… trong phê bình:

Các cụ xưa thường dạy: Trung ngôn nghịch nhĩ. Bậc minh quân bao giờ cũng chọn tôi trung, không chọn gian thần, nịnh thần. Lời nói thẳng có thể khó nghe, nhưng nếu biết nhìn nhận và biết lắng nghe thì rất bổ ích. Bác Hồ yêu cầu công tác phê bình phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm, nhưng không được dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc…
Theo tư tưởng của Bác, đạo đức cách mạng là “thật thà tự phê bình”. Đó là bài học lớn. Trong mỗi đời người, trong mỗi công việc sẽ có khuyết điểm, không ai là thánh nhân cả, nhưng cái quan trọng là thật thà tự phê bình mới là người tốt, là người trung thực, thẳng thắn. Do không thật thà phê bình mà đã sai lầm càng sai lầm thêm, thậm chí sai lầm đến mức có tội với Đảng, với dân. Rất nhiều người, trước khi bị tổ chức, pháp luật “rờ gáy” đều là những người hoàn thành tốt nhiệm vụ, gương mẫu. Sai lầm của họ cũng xảy ra trong thời gian đó. Suy cho cùng là không thật thà, không nghiêm túc với mình. Bác Hồ dạy: “Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa”.

3. Dân chủ, công khai và không  “gió theo chiều”:

Bác quan niệm: công tác phê bình phải được thực hiện một cách dân chủ, công khai. Muốn dân chủ tốt thì cán bộ phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Phê bình phải công khai, tránh thái độ “trước mặt không nói, soi mói sau lưng” hay “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng lắm mồm”; trong hội nghị câm như thóc, ngoài hội nghị lại đi đâm thọc.
Làm theo lời Bác thiết thực nhất là nói không với thái độ “trông trước ngó sau, nghe ngóng hùa theo, đón ý cấp trên để phê bình cho “trúng”…; “dĩ hòa vi qúy”, “mũ ni che tai”, “ngậm miệng ăn tiền”. Muốn dân chủ, công khai trong phê bình, thì yếu tố quan trọng là tạo không khí dân chủ trong Đảng. Càng dân chủ thì Đảng càng mạnh. Càng dân chủ thì Đảng càng có nhiều ý kiến tâm huyết và trách nhiệm. Bác bảo: “Để làm cho Đảng mạnh thì phải mở rộng dân chủ (thật thà tự phê bình và phê bình), thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và tính kỷ luật”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước chỉ rõ: “Việc đánh giá cán bộ phải trên cơ sở thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình; theo nguyên tắc tập thể, dân chủ, công khai, kết luận theo đa số”. Không dân chủ, công khai và minh bạch trong công tác phê bình tất yếu dẫn đến căn bệnh “thậm thà thậm thụt”, “thì thầm thì thào” trong Đảng, trong tổ chức.

4. Đề cao tình đồng chí, đồng nghiệp:

Hồ Chí Minh cũng xác định rõ đối tượng của phê bình “là công việc chứ không phải là người” để loại trừ những thái độ thù hận, trả đũa hay mặc cảm đố kỵ. Quan điểm này, được Đảng ta vận dụng và hướng dẫn cụ thể trong nhiều văn bản và hàng năm được nhắc lại để chỉ đạo công tác phê bình. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước nhấn mạnh: “Không đánh giá, sử dụng cán bộ một cách cảm tính, chủ quan. Mọi phẩm giá và bằng cấp, danh hiệu và chức vụ tài năng và cống hiến đều phải được kiểm nghiệm qua hoạt động thực tiễn”.
Đánh giá công việc, phê bình theo công việc chính là thể hiện tình đồng chí, tình đồng nghiệp nhất. Công tác phê bình phải thành tâm, đúng mực, không nên “ít suýt ra nhiều”, không nên nâng quan điểm theo kiểu trù dập. Không nhân danh cuộc vận động này nọ, không nhân danh phê bình để bới móc, nói xấu lẫn nhau, không phê bình lung tung, hồ đồ, vô trách nhiệm. Phê bình không chỉ dừng lại ở việc vạch ra khuyết điểm mà còn phải đưa ra biện pháp sửa chữa. Thái độ đúng đắn trong phê bình mà Hồ Chí Minh nêu ra là “lý lẽ phân minh, nghĩa tình đầy đủ”. Khi phê bình phải thật sự khách quan, công tâm chứ không phải “yêu nên tốt ghét nên xấu”, không phải kiểu “hồi thương thì thương cả nhà, hồi ghét thì mượn người ta ghét dùm” để dẫn tới tình trạng cùng phe cánh thì bao che, không cùng phe cánh thì bới móc.
Tình đồng chí, đồng nghiệp còn phải độ lượng, bao dung, tôn trọng nhau. Bác dạy rất chí tình: “Không nên coi thường cán bộ trẻ. Một số ít cán bộ già mắc bệnh công thần, cho mình là người có công lao, hay có thái độ “cha chú” với cán bộ trẻ, đảng viên trẻ nói gì cũng gạt đi, cho là “trứng khôn hơn vịt”, “măng mọc quá tre”. Thời đại của ta hiện nay rất oanh liệt. Xã hội, thế giới phát triển rất nhanh. Thế mà các đồng chí lớn tuổi lại coi thường cán bộ trẻ, là không đúng. Còn cán bộ trẻ không được kiêu ngạo, phải khiêm tốn học hỏi cán bộ già có kinh nghiệm”.
Cũng cần phải phê phán thái độ phê bình theo lối “vuốt ve”, xu nịnh cán bộ lãnh đạo. Càng yêu thương đồng chí, đồng nghiệp thì càng chân thành phê bình, nếu chỉ ra được cho đồng chí mình, đồng nghiệp mình biện pháp để sửa chữa thì vô cùng quý báu. Xem ra, các cụ dạy “thương cho roi cho vọt” cũng đáng để suy nghĩ trong công tác phê bình.

5. Không lợi dụng phê bình để “hạ” nhau:

Thực chất của lợi dụng phê bình để “hạ” nhau là chủ nghĩa cá nhân, cơ hội; là phê bình không theo công việc, là phê bình cảm tính, là phe cánh, là trù dập cán bộ,…Sinh thời, Bác Hồ rất chú ý đến hiện tượng này và luôn ren dạy cán bộ không được lợi dụng phê bình để công kích những người mình không ưa, kéo bè, kéo cánh để “giải quyết, thanh toán, hạ bệ” nhau gây ra mất đoàn kết nội bộ, tan rã tổ chức. Thậm chí khi phê bình, không nói gì về năng lực công tác, mà đâm thọc vào những chuyện cá nhân, rất riêng tư của con người.
Cần đấu tranh quyết liệt để loại kiểu sử dụng phê bình như là những thủ đoạn, tiểu xảo để “dìm” nhau, làm mất uy tín của nhau. Công tác phê bình không phải là soi mói, “bới lông tìm vết” của đồng chí mình để tìm cơ hội “hạ bệ” lẫn nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, cần phải tránh triệt để hiện tượng: “Khi phê bình ai, không phải vì Đảng, không phải vì tiến bộ, không phải vì công việc, mà chỉ công kích cá nhân, cãi bướng, trả thù, tiểu khí”.
Công tác phê bình còn được Hồ Chí Minh coi là thứ “vũ khí thần diệu” để Đảng thường xuyên trong sạch vững mạnh. Toàn bộ những quan điểm đó chính là văn hoá phê bình, trong Đảng, đó chính là văn hoá Đảng. Và đó cũng chính là phương pháp và nghệ thuật lãnh đạo của Đảng. Theo Bác Hồ, phương pháp phù hợp nhất là phải thành khẩn, trung thực, kiên quyết và phải có văn hóa trong tự phê bình  và phê bình. Công tác phê bình là vì cái chung- là vì phát triển, không phải là phê bình chung chung, phê bình mà người bị phê bình không thấy mình sai đâu mà sửa chữa, khắc phục. Học theo Bác là công việc lâu dài và còn nhiều việc phải thường xuyên trao dồi, nhưng hãy làm theo công tác phê bình của Người. Đó là việc diễn ra hàng ngày, hàng năm, với mọi người, mọi cán bộ, đảng viên, mọi ngành, mọi cấp. Và đó là nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức, của chiến lược công tác cán bộ của Đảng ta.
(Sưu tầm)

Views: 0

The post Bác Hồ với công tác phê bình appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Những bài học quý báu trong 50 năm thực hiện bản Di chúc bất hủ https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/nhung-bai-hoc-quy-bau.html Fri, 03 Dec 2021 09:07:23 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=11480 Năm nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kỷ niệm 50 thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ

The post Những bài học quý báu trong 50 năm thực hiện bản Di chúc bất hủ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Năm nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kỷ niệm 50 thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bản Di chúc của Người mang tầm tư tưởng của thời đại, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, là những chỉ dẫn quý báu cho Đảng và nhân dân ta trước đây, hiện nay và mai sau. Qua 50 năm thực hiện bản Di chúc bất hủ của Bác; đọc lại và chiêm nghiệm sâu sắc Di chúc của Người, có thể rút ra nhiều bài học quý báu.

Bài học thứ nhất, về tinh thần lạc quan và bản lĩnh khoa học cách mạng của Đảng. Di chúc của Người được viết trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đang trong giai đoạn hết sức ác liệt. Niềm tin sâu sắc về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước “nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn” trong Di chúc của Bác, đã truyền ngọn lửa niềm tin đến mỗi người dân Việt Nam và tạo nên sức mạnh to lớn-sức mạnh của niềm tin, của ý chí cách mạng của toàn dân tộc, làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975 có tầm vóc vĩ đại nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và trong lịch sử giải phóng dân tộc.
Sau kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong những năm đầu thập kỷ 1980, đất nước ta phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, khi phải khôi phục đất nước bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh và cả những yếu kém, bất cập của cơ chế hành chính quan liêu bao cấp, trong bối cảnh nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Chính trong hoàn cảnh đó, Đảng ta lại chứng tỏ bản lĩnh khoa học và cách mạng, bằng việc khởi xướng và lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Tại Đại hội VI, Đảng ta đã dũng cảm “nhìn thẳng vào sự thật”, thực hiện tự phê bình và phê bình, nghiêm túc rút ra những bài học lịch sử của cách mạng Việt Nam: “Lấy dân làm gốc”, “Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”, “Đoàn kết toàn dân” phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Cuối những năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ trước, khi chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, hệ thống các nước XHCN lâm vào thoái trào, vượt qua cơn “động đất chính trị” trên thế giới, một lần nữa Đảng ta đã tỏ rõ bản lĩnh khoa học cách mạng của mình để đưa đất nước đứng vững, tiếp tục tiến hành sự nghiệp đổi mới và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong hơn 30 năm qua.
Bài học thứ hai, về sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”. Từ khi thành lập Đảng năm 1930, việc giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng là nhân tố quyết định thành công trong mọi nhiệm vụ, “tiến từ thắng lợi này đến đến thắng lợi khác”. Nhờ đoàn kết, Đảng đã lãnh đạo cách mạng nước ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vang dội trong thế kỷ 20 và gần hai thập niên đầu thế kỷ 21. Đó là thắng lợi của Cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ ách thống trị gần 100 năm của thực dân Pháp và triều đình phong kiến, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, kết thúc bằng Chiến dịch Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”; thắng lợi của cuộc kháng chiến hơn 20 năm chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên CNXH; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước trong hơn 30 năm qua, vượt qua mọi khó khăn, bao vây cấm vận, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội… Những năm qua, Đảng tiếp tục lãnh đạo hệ thống chính trị và nhân dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng với mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng cũng là chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất như trong bản Di chúc Bác đã nhấn mạnh: “Giữ gìn sự đoàn kết và nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đoàn kết của Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đại đoàn kết dân tộc. Đảng ta thường xuyên thực hiện lời dạy của Bác để tiến hành công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ngay trong nhiệm kỳ Đại hội XII này, Đảng đã ban hành nghị quyết các Hội nghị Trung ương 4, 6, 7 về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và ban hành Quy định số 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 8 về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư và Ủy viên Ban chấp hành Trung ương”.
Bài học thứ ba về thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. Để xây dựng sự đoàn kết, thống nhất của Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta phải thực hành dân chủ thực sự. Nhờ phát huy và mở rộng dân chủ, Đảng ta đã khơi dậy, phát huy cao nhất trí tuệ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Chính việc phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng đã từng bước khắc phục tình trạng bè cánh, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay, khắc phục tình trạng “lợi ích nhóm”, “cánh hẩu…”, “con ông cháu cha”, “một người làm quan cả họ có vị trí”…; từng bước cũng khắc phục tình trạng quan liêu, hách dịch, cửa quyền, xa rời quần chúng của một bộ phận “quan cách mạng”. Các nghị quyết của Đảng cũng nêu rõ thực hành dân chủ rộng rãi, nghĩa là phải dân chủ thực sự, tránh “dân chủ hình thức”, dân chủ phải tiến hành thường xuyên, dân chủ từ Trung ương đến cơ sở. Nhưng Đảng ta cũng khẳng định theo nguyên lý của  Chủ nghĩa Mác-Lênin, dân chủ phải gắn với tập trung. Tập trung dân chủ là nguyên tắc sống còn và cũng là biện pháp tốt nhất để xây dựng Đảng ta. Kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện trong thực hành dân chủ hình thức, hoặc lợi dụng dân chủ để truyền bá, tán phát những quan điểm, tư tưởng cá nhân, xâm hại đến lợi ích chung, gây mất đoàn kết trong Đảng và trong xã hội. Thực hiện Di chúc của Bác, Đảng ta cũng thường xuyên và nghiêm chỉnh tiến hành tự phê bình và phê bình. Đây là nguyên tắc, là quy luật phát triển của Đảng. Trong Di chúc, Bác coi đây là biện pháp tốt nhất để củng cố, phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng. Người yêu cầu tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, nghiêm túc, không nể nang, qua loa đại khái, hình thức. Mục đích của tự phê bình và phê bình là giúp cho bản thân và đồng đội ngày càng tiến bộ hơn; tuyệt đối không vì mâu thuẫn cá nhân, động cơ cá nhân mà tiến hành phê bình theo kiểu “vạch lá tìm sâu”, “bới lông tìm vết” nhằm trù dập, đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Theo Bác, tự phê bình và phê bình là công việc thường xuyên, ngừng tự phê bình và phê bình tức là ngừng tiến bộ, là thoái bộ.
Bài học thứ tư là sự quan tâm đặc biệt sâu sắc với thế hệ trẻ-những chủ nhân tương lai của đất nước. Từ khi Đảng mới thành lập, trong các văn kiện, Đảng ta luôn dành sự quan tâm sâu sắc đến lớp người trẻ tuổi; đoàn viên, thanh niên là những người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng, là đội hậu bị tin cậy của Đảng. Trong Di chúc, Bác căn dặn: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết”. Bác nói công việc này “quan trọng” vì không ai khác ngoài các thế hệ thanh niên sẽ kế tục sự nghiệp cách mạng.
Bài học thứ năm, là sự chăm lo, không ngừng nâng cao đời sống của các tầng lớp nhân dân. Quan tâm tới nhân dân là bổn phận, trách nhiệm của Đảng bởi lợi ích của Đảng không nằm ngoài lợi ích của dân tộc, của nhân dân. Thực hiện Di chúc của Người, sau khi thống nhất đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế của đất nước đã từng bước khởi sắc. Từ một nước thuộc nhóm nước nghèo, thu nhập thấp, chúng ta đã gia nhập nhóm các nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nếu năm 1990 bình quân thu nhập mới đạt 200USD/người thì đến nay đã đạt 2.600USD/người. Bộ mặt đất nước từ đô thị đến các vùng nông thôn có nhiều khởi sắc; niềm tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng cố, tăng cường.
Bài học thứ sáu, là tinh thần cống hiến cho lý tưởng cách mạng. Khi nói về việc riêng trong Di chúc, Bác bộc bạch: “Chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” cho Tổ quốc, cho cách mạng và cho nhân dân. Bác nhấn mạnh từ “phục vụ”, nhằm nói rõ nhiệm vụ của người làm cách mạng là phải quên mình phục vụ Tổ quốc, nhân dân. Người cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người “đầy tớ” trung thành của nhân dân, không đòi hỏi một quyền lợi riêng cho mình, cống hiến trọn đời cho nhân dân, cho Tổ quốc. Cuộc đời của Bác là một tấm gương sáng ngời thể hiện những phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư… Chính vì vậy, Bộ Chính trị (khoá XI) đã ban hành Chỉ thị số 03- CT/TW về “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Bộ Chính trị (khoá XII) ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân học tập, noi theo.
Kỷ niệm 50 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, là dịp để chúng ta ôn lại những lời căn dặn của Người trong bản Di chúc lịch sử, mang tầm tư tưởng của thời đại, để mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức Đảng tự soi rọi lại mình, tăng thêm nghị lực và ý chí hành động; quyết tâm xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng tiên phong lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội, đáp ứng lòng mong đợi của cán bộ, đảng viên và nhân dân; “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”, như di nguyện của Bác Hồ kính yêu./.

TS. BÙI THẾ ĐỨC
Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương

(Sưu tầm)

Views: 1

The post Những bài học quý báu trong 50 năm thực hiện bản Di chúc bất hủ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>