Hiệp định Giơnevơ Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/hiep-dinh-gionevo Cổng Vào Tri Thức Fri, 19 Jul 2024 08:15:26 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/wp-content/uploads/2024/12/cropped-logotvbt-32x32.png Hiệp định Giơnevơ Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/hiep-dinh-gionevo 32 32 70 năm Ngày ký Hiệp định Geneve 1954: Thắng lợi to lớn của Việt Nam trên con đường bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/70-nam-ngay-ky-hiep-dinh-geneve.html Fri, 19 Jul 2024 08:15:26 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28447 Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam 70 NĂM

The post 70 năm Ngày ký Hiệp định Geneve 1954: Thắng lợi to lớn của Việt Nam trên con đường bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam

70 NĂM NGÀY KÝ HIỆP ĐỊNH GENEVE 1954: THẮNG LỢI TO LỚN CỦA VIỆT NAM TRÊN CON ĐƯỜNG BẢO VỆ NỀN ĐỘC LẬP DÂN TỘC, THỐNG NHẤT TOÀN VẸN LÃNH THỔ

Tròn 70 năm trước, ngày 21/7/1954, Hiệp định Geneve về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được ký kết. Đây là một dấu mốc quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc ta trong thế kỷ XX; đồng thời cũng là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử, là thành quả lớn đầu tiên của nền ngoại giao Cách mạng Việt Nam trên vũ đài quốc tế. Từ đó đến nay, sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta trải qua nhiều chặng đường lịch sử, song ý nghĩa lịch sử và bài học từ Hội nghị Geneve đối với công tác đối ngoại phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

* Quyết định mở mặt trận đấu tranh ngoại giao

Ngay từ khi thực dân Pháp quay lại xâm lược Đông Dương, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương ngăn chặn chiến tranh, giải quyết các vấn đề bằng biện pháp hòa bình. Chính phủ Việt Nam đã ký với Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946. Thế nhưng, với bản chất hiếu chiến, thực dân Pháp đã liên tiếp lấn tới, đẩy mạnh chiến tranh, buộc nhân dân Việt Nam phải đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến toàn quốc để bảo vệ nền độc lập tự do vừa giành được. Với tinh thần “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, với ý chí quật cường, quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, huy động mọi nguồn lực quyết tâm đánh thắng chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.

Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh họp bàn kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954. Ảnh: TTXVN

Cuối năm 1953, phối hợp với cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, Trung ương Đảng quyết định mở mặt trận đấu tranh ngoại giao. Ngày 26/11/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó” [1].

Trong khi đó, tình hình thế giới đầu những năm 1950, trong xu thế hòa hoãn, các nước lớn bắt đầu thỏa hiệp, muốn giải quyết các xung đột và chiến tranh bằng thương lượng hòa bình. Các nước Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp thỏa thuận sẽ triệu tập Hội nghị quốc tế ở Geneve (Thụy Sĩ) để giải quyết vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương. Ngày 26/4/1954, Hội nghị Geneve khai mạc. Tuy nhiên, các nước phương Tây vẫn chưa chấp nhận sự tham gia của Việt Nam.

Ngày 1/5/1954, Quân đội nhân dân Việt Nam mở đợt tấn công cuối cùng vào Điện Biên Phủ. Trước thất bại không thể cứu vãn, ngày 2/5/1954, Anh, Pháp, Mỹ thông báo qua Liên Xô chấp nhận sự có mặt chính thức của Việt Nam. Đến ngày 7/5/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Chỉ một ngày sau đó, ngày 8/5/1954, Hội nghị Geneve bắt đầu thảo luận về vấn đề Đông Dương.

* 1 trong 3 văn kiện ngoại giao quan trọng nhất trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân xâm lược

Hiệp định Geneve về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam cùng với Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Hiệp định Paris năm 1973 đã trở thành 3 văn kiện ngoại giao quan trọng nhất trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta.

Phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham dự Hội nghị Geneve về Đông Dương (1954) chụp ảnh chung tại Trụ sở phái đoàn ở Villa Cadre. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Theo đó, thành phần tham dự Hội nghị gồm 9 bên: Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc gia Việt Nam, Vương Quốc Lào và Vương Quốc Campuchia. Hội nghị diễn ra qua 3 giai đoạn:

– Giai đoạn 1 (từ 8/5 đến 19/6/1954): Trong giai đoạn này, ngoài việc trao đổi chương trình nghị sự, các Đoàn trình bày lập trường của mình về giải pháp cho vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Sau 4 phiên họp toàn thể và 8 phiên họp cấp trưởng đoàn, ngày 29/5/1954, Hội nghị Geneve ra quyết định: (1) Ngừng bắn toàn diện và đồng thời; (2) Đại diện hai bên gặp nhau ở Geneve để bàn về bố trí lực lượng theo thỏa thuận đình chiến, bắt đầu bằng việc phân vùng tập kết quân đội ở Việt Nam. Do lập trường giữa các đoàn có một khoảng cách khá lớn nên các cuộc đàm phán tiến triển rất chậm. Đến ngày 19/6/1954, Mendès France lên cầm quyền, hứa với Quốc hội Pháp trong vòng một tháng sẽ giải quyết xong vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Đây là sự kiện quan trọng góp phần phá vỡ bế tắc, thúc đẩy đàm phán tiến triển.

Tin về Chiến thắng Điện Biên Phủ của quân đội Việt Nam chiều 7/5/1954 được truyền đến Geneve và ngay sáng sớm ngày 8/5 (giờ Geneve), vấn đề Đông Dương chính thức được đưa lên bàn nghị sự. Ảnh: Tư liệu TTXVN

– Giai đoạn 2 (từ 20/6 đến 10/7/1954): Trong giai đoạn này, hầu hết các Trưởng đoàn về nước báo cáo, chỉ có Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở lại. Các Quyền trưởng đoàn tổ chức các cuộc họp hẹp và họp Tiểu ban quân sự Việt – Pháp bàn vấn đề tập kết, chuyển quân, thả tù binh và việc đi lại giữa hai miền. Vấn đề phân định vĩ tuyến tại Việt Nam trở thành nội dung đàm phán chính với các hoạt động gặp gỡ, trao đổi quan điểm của các bên. Nhìn chung, các cuộc họp hẹp ở Geneve trong giai đoạn này không có tiến triển gì đáng kể.

– Giai đoạn 3 (từ ngày 11 đến 21/7/1954): Trong 10 ngày cuối của Hội nghị đã diễn ra nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi hai bên, ba bên hoặc nhiều bên giữa các Trưởng đoàn. Các phiên họp chủ yếu đàm phán, thỏa thuận về phân chia vĩ tuyến làm ranh giới tạm thời; thông qua các văn kiện, kể cả các điều khoản thi hành Hiệp định. Cuối cùng là phiên họp toàn thể bế mạc Hội nghị. Các văn bản được ký kết tại Hội nghị, gồm: 3 Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia; 1 bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị; 2 bản tuyên bố riêng của đoàn Mỹ và đoàn Pháp; Các công hàm trao đổi giữa Việt Nam và Pháp.

Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn, tại phiên khai mạc Hội nghị Geneve về Đông Dương, sáng 8/5/1954 với tư thế của một dân tộc chiến thắng. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Vậy là, trải qua 75 ngày đêm đàm phán với 31 phiên họp, trong đó có các phiên họp toàn thể, phiên họp cấp trưởng đoàn cùng nhiều cuộc tiếp xúc song phương và đa phương, Hiệp định Geneve đã được ký kết với nhiều nội dung.

Trong đó, nội dung đối với riêng Việt Nam bao gồm: những điều khoản về đình chỉ chiến sự và lập lại hòa bình: ngừng bắn, tập kết, chuyển quân được hai bên thực hiện trong thời hạn 300 ngày; chuyển giao khu vực, trao trả tù binh và thường dân bị giam giữ…

Bên cạnh đó là những điều khoản về duy trì và củng cố hòa bình ở Việt Nam: Lập giới tuyến quân sự tạm thời ở vĩ tuyến 17 và khu phi quân sự (sông Bến Hải); không coi vĩ tuyến 17 là ranh giới chính trị hay lãnh thổ; cấm tăng viện nhân viên quân sự, bộ đội, vũ khí và dụng cụ chiến tranh khác vào Việt Nam; cấm xây dựng căn cứ quân sự mới; cấm hai miền không được gia nhập liên minh quân sự nào; cấm sử dụng mỗi miền để phục vụ cho bất kỳ chính sách quân sự nào.

Những điều khoản chính trị: Vấn đề tổng tuyển cử để thống nhất đất nước; Hiệp thương hai miền vào tháng 7/1955, tổng tuyển cử vào tháng 7/1956; tự do chọn vùng sinh sống; trong khi chờ đợi không khủng bố, trả thù hay phân biệt đối xử với những người đã hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh.

Ngoài ra còn có những điều khoản quy định việc tổ chức thi hành Hiệp định là Ủy ban kiểm soát liên hợp, Ủy ban giám sát quốc tế trung lập.

* Thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam

Hiệp định Geneve là văn bản pháp lý quốc tế quan trọng. Lần đầu tiên các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được các nước lớn công nhận tại một hội nghị đa phương. Pháp và các nước tham gia hội nghị “cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”, “tuyệt đối không can thiệp vào công việc nội trị” của Việt Nam, Lào và Campuchia. Pháp buộc phải đình chỉ chiến sự và rút hoàn toàn quân đội khỏi lãnh thổ 3 nước Đông Dương. Gần 20 năm sau, Hiệp định Paris năm 1973 đã khẳng định lại những cơ sở pháp lý quan trọng này: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Geneve năm 1954 về Việt Nam đã công nhận”.

Vào lúc 24 giờ ngày 20/7/1954 (giờ Geneve), tức sáng 21/7/1954 (giờ Hà Nội), Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu thay mặt Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ký Hiệp định đình chiến ở Việt Nam. Ngay sau đó, Hiệp định đình chiến ở Lào và Campuchia cũng được ký kết. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneve đã kết thúc cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của Nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, giải phóng miền Bắc nước ta, tạo điều kiện xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương lớn, vững mạnh cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975.

Hiệp định Geneve đã thể hiện bản lĩnh của nền ngoại giao Cách mạng Việt Nam. Lần đầu tiên tham gia vào một hội nghị đa phương trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, các nước lớn tham gia hội nghị đều có mục tiêu và lợi ích riêng nhưng đoàn đàm phán của ta đã phát huy chiến thắng trên chiến trường, phát huy sức mạnh chính nghĩa của dân tộc, kiên định về nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách lược để giành được những kết quả quan trọng trên bàn Hội nghị.

Hội nghị Geneve để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.

Một là, luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; kiên định về nguyên tắc, linh hoạt, mềm dẻo về sách lược, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; biết giành thắng lợi từng bước trong cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Hai là, tăng cường tiềm lực, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước là nhân tố bên trong có ý nghĩa quyết định, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động đối ngoại để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Ba là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình và công lý cũng như nhân dân thế giới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, phát huy vai trò của công tác đối ngoại, tăng cường đối thoại, sử dụng biện pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp, xung đột trong quan hệ với các nước, bảo đảm phù hợp với luật pháp quốc tế; ra sức giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định vì lợi ích của Nhân dân Việt Nam và Nhân dân thế giới.

* Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử

Nhìn lại 7 thập kỷ kể từ ngày ký Hiệp định Geneve về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, đặc biệt từ khi Đảng tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, đất nước ta đã đạt được những thắng lợi vẻ vang và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Tuyến đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông (Hà Nội) – tuyến đường sắt đô thị đầu tiên của cả nước trở thành phương tiện đi lại hằng ngày của đông đảo người dân Thủ đô. Ảnh: Tuấn Anh – TTXVN

Đến nay, quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên gấp nhiều lần; đời sống Nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Việt Nam hiện đứng thứ 35 trong top 40 nước có quy mô kinh tế hàng đầu thế giới với quy mô kinh tế 435 tỷ USD. Việt Nam cũng nằm trong top 20 về thu hút đầu tư nước ngoài và top 20 về kim ngạch xuất nhập khẩu trên thế giới. Với độ mở nền kinh tế cao, đạt gần 200% so với quy mô GDP, Việt Nam là nền kinh tế năng động trong ASEAN.

Cùng với phát triển kinh tế-xã hội, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai hiệu quả. Từ một nước bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã mở rộng, làm sâu sắc quan hệ với 193 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có 3 nước có quan hệ đặc biệt, 7 nước đối tác chiến lược toàn diện, 11 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện.

Sức mạnh tổng hợp, cơ đồ, vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao, được bạn bè quốc tế tín nhiệm đề cử gánh vác nhiều trọng trách quốc tế quan trọng trong các cơ chế, diễn đàn đa phương, như: Liên hợp quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), APEC, ASEAM, WTO… nhất là: Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021 (với số phiếu kỷ lục 192/193); Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77; thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc 2023-2025, Ủy ban Liên Chính phủ Bảo vệ Di sản Văn hóa Phi Vật thể của UNESCO; Ủy ban Luật pháp Quốc tế nhiệm kỳ 2023-2027, Chủ tịch ASEAN các năm 1998, 2010, 2020… đóng góp tích cực cho công cuộc gìn giữ hòa bình, an ninh ở khu vực và trên thế giới.

“Có thể nói, chưa bao giờ vị thế, uy tín và hình ảnh một nước Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển năng động, là bạn bè thủy chung, chân thành, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm lại nổi bật trên trường quốc tế như ngày nay” [2].

Phát huy bài học kinh nghiệm từ việc ký Hiệp định Geneve về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ra sức phấn đấu, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng trên các lĩnh vực; xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại; tiếp tục phát huy vai trò của công tác đối ngoại trong việc giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định; huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín quốc gia, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

Minh Duyên // https://nvsk.vnanet.vn

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.8, tr.340-341.
[2] Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị ngoại giao lần thứ 32.

Views: 376

The post 70 năm Ngày ký Hiệp định Geneve 1954: Thắng lợi to lớn của Việt Nam trên con đường bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
70 năm Hiệp định Geneve: Sức ép trên bàn đàm phán hòa bình https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/suc-ep-tren-ban-dam-phan-hoa-binh.html Fri, 19 Jul 2024 08:00:40 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28442 Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam 70 NĂM

The post 70 năm Hiệp định Geneve: Sức ép trên bàn đàm phán hòa bình appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam

70 NĂM HIỆP ĐỊNH GENEVE: SỨC ÉP TRÊN BÀN ĐÀM PHÁN HÒA BÌNH

Tại hội nghị Geneve, từ thế bị động, lẻ loi, đơn độc, Việt Nam đã vững vàng, kiên định đấu tranh và đạt được những kết quả có ý nghĩa chiến lược, mở đường cho dân tộc đi đến hoà bình trọn vẹn.

Cách đây 70 năm, tháng 7/1954, Hiệp định Geneve được ký kết. Việt Nam đã thực sự có được hoà bình trên một nửa đất nước. Mặc dù đến Hội nghị Geneve với tư cách là người chiến thắng nhưng trên bàn đàm phán Geneve, đoàn đàm phán của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bị bao vây và tạo sức ép từ nhiều phía. Do vậy, nhiều kỳ vọng, mong muốn của chúng ta chưa thành hiện thực.

Những điều khoản ký kết của Hiệp định Geneve chưa phản ánh đầy đủ, tương xứng với những thắng lợi chúng ta giành được trên chiến trường. Nhưng trong bối cảnh đó, từ thế bị động, lẻ loi, đơn độc, chúng ta đã vững vàng, kiên định đấu tranh và đạt được những kết quả có ý nghĩa chiến lược, mở đường cho dân tộc đi đến hoà bình trọn vẹn.

Kỷ niệm 70 năm Ngày Hiệp định Geneve được ký kết (21/7/1954 – 21/7/2024), phóng viên VOV phỏng vấn Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Dương Huân, nguyên Giám đốc Học viện Ngoại giao. 

Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Dương Huân, nguyên Giám đốc Học viện Ngoại giao

PV: Trong bối cảnh Hội nghị Geneve là cuộc chơi của các nước lớn, do các nước lớn triệu tập, Việt Nam chỉ là 1 trong 9 bên tham gia hội nghị, trong khi các nước đến với hội nghị đều có những toan tính lợi ích riêng của họ. Trong bối cảnh mà chúng ta giành được hoà bình trên một nửa đất nước. Đó có được coi là một trong những thành công lớn nhất mà chúng ta đạt được trên bàn đàm phán Geneve, thưa Giáo sư?

GS Vũ Dương Huân: Tôi cho rằng, cái chính là chấm dứt chiến tranh xâm lược, buộc Pháp phải rút quân, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, Lào, Campuchia thì đó là những vấn đề cốt lõi và đặc biệt, chúng ta giành được hoà bình ở một nửa đất nước.

Nhớ lại hội nghị đàm phán Hiệp định Sơ bộ năm 1946, một vấn đề đặt ra là vấn đề độc lập, tự chủ. Mình đòi độc lập, tự chủ nhưng người Pháp kiên quyết không chấp nhận vì nếu trao trả độc lập, tự chủ cho Việt Nam thì những thuộc địa Pháp sẽ như thế nào. Cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh mới kiến nghị đưa ra cái gọi là tự do. Từ “tự do” rất hay của Bác đưa ra và gỡ được quan điểm của hai bên, đưa quan điểm hai bên gần nhau hơn. Nhưng tự do lại có chính phủ, có quân đội, có tài chính riêng nằm trong Liên bang Đông Dương. Nghĩa là có những thành tố của độc lập.

Bác Hồ rất tài giỏi và khôn khéo như thế, để cho quan điểm gần nhau mới ký được Hiệp định Sơ bộ. Như vậy, từ Hiệp định Sơ bộ đến Geneve chúng ta mới tiến lên một bước xa hơn. Từ chỗ Pháp chỉ công nhận Việt Nam là quốc gia tự do, bây giờ công nhận độc lập, tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, không chỉ của Việt Nam mà còn của Lào, Campuchia nữa. Đó là thắng lợi rất lớn, thắng lợi cực kỳ quan trọng, liên quan đến độc lập, chủ quyền, lãnh thổ.

Quang cảnh Phiên khai mạc Hội nghị Geneve về Đông Dương, ngày 8/5/1954. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

PV: Mặc dù chúng ta mới chỉ giành được hoà bình trên một nửa đất nước nhưng đó là một thắng lợi to lớn và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình của sự nghiệp cách mạng. Ông có thế cho biết, vấn đề về đình chỉ chiến tranh, xác định giới tuyến quân sự tạm thời đã được thảo luận như thế nào ở Hội nghị Geneve?

GS Vũ Dương Huân: Trong đàm phán hội nghị Geneve về Đông Dương có nhiều vấn đề đặt ra. Liên quan đến chiến tranh thì phải chấm dứt chiến tranh, phải ra một thỏa thuận về hòa bình. Một trong những nội dung đàm phán cực kỳ cam go mà các bên đều quan tâm chính là phân vùng giới tuyến quân sự tạm thời. Trong đàm phán có vấn đề đặt ra là: Nếu hòa hoãn thì lực lượng chiến đấu hai bên phải sắp xếp lại như thế nào? Đó là một vấn đề phức tạp đặt ra.

Lúc đầu có phương án là ai ở đâu thì đóng ở đó, tức là đình chiến tại chỗ. Có nhiều phương án đặt ra, chúng ta cũng suy nghĩ phương án đó. Nhưng theo đề xuất của các nước lớn, đặc biệt là của Trung Quốc là nên có những vùng tương đối rộng, hai là mô hình chấm dứt chiến tranh như Triều Tiên, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới. Điều đó cũng ảnh hưởng đến Hội nghị. Cuối cùng thỏa thuận là chia ngang để hình thành những khu tập kết lớn, để tập trung quân của hai bên cho thuận tiện.

PV: Vì sao chúng ta không phát huy được hết khả năng thắng lợi về quân sự trên bàn đàm phán tại Hội nghị Geneve?

GS Vũ Dương Huân: Cái chính là đàm phán không phải hai bên giữa Việt Nam và Pháp. Đáng nhẽ cuộc đàm phán giữa chúng ta và Pháp thì sẽ phát huy được thế mạnh của mình nhưng đây là đàm phán đa bên. Đàm phán đa bên là với các nước lớn, do các nước lớn triệu tập, do các nước lớn chủ trì. Anh nào đi đàm phán cũng vì lợi ích của dân tộc của họ, coi trọng lợi ích của họ, làm sao coi trọng đến các nước nhỏ bé được. Vì đàm phán đa bên và cái đó mới thấy rằng ngoại giao Pháp đã suy tính chuyện này. Nhờ đàm phán giữa các nước lớn cho nên Pháp giành được nhiều lợi ích hơn, không phải đàm phán trực tiếp với Việt Nam. Nếu đàm phán trực tiếp Việt Nam thì chắc chắn chúng ta sẽ ở thế thượng phong.

Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn, tại phiên khai mạc Hội nghị Geneve về Đông Dương, ngày 8/5/1954. Ảnh: Tư liệu TTXVN

PV: Mặc dù là đàm phán đa bên nhưng chúng ta vẫn có thể lấy thắng lợi quân sự là chiến thắng Điện Biên Phủ để có thể buộc các nước tham gia hội nghị phải lắng nghe và tôn trọng ý kiến của chúng ta?

GS Vũ Dương Huân: Mình là thiểu số, là 1 trong 9 đoàn. Cộng cả hai nước xã hội chủ nghĩa là Liên Xô, Trung Quốc thì cũng chỉ 3/9. Nghĩa là trong hội nghị đôi khi bỏ phiếu theo đa số. Như thế thì rõ ràng mình là 3/9 và thậm chí là 1/9 cho nên rất là hạn chế. Nhiều vấn đề lợi ích của Việt Nam, quan điểm Việt Nam, mặc dù Liên Xô trong thâm tâm thì ủng hộ nhưng cuối cùng lại vì phương Tây và cũng vì lợi ích của họ. Cho nên Liên Xô, Trung Quốc cũng không ủng hộ đối với mình như mình mong muốn. Thí dụ vấn đề Campuchia, hội nghị trù bị thì đồng ý nhưng ra hội nghị chính thức lại không đồng ý.

PV: Rất tiếc là đại diện lực lượng kháng chiến Lào và Campuchia lại không được tham gia hội nghị. Phải chăng cũng vì thế mà chúng ta gần như đơn thương độc mã, độc lập tác chiến trên bàn đàm phán Geneve?

GS Vũ Dương Huân: Lào, Campuchia rõ ràng là một bên tham gia cuộc chiến. Lực lượng kháng chiến Lào, Campuchia cũng có đóng góp lớn, thế nhưng họ không được mời tham gia hội nghị. Họ không được mời tham gia hội nghị là điều cực kỳ hạn chế cho chúng ta và cho các bạn Lào, Campuchia. Cuối cùng, họ quyết định trong đoàn Việt Nam có một thành viên của Lào và 1 thành viên của Campuchia, trong khi phải là đoàn độc lập mới có tiếng nói, có vị trí, vị thế ủng hộ chúng ta. Nhưng cuối cùng là hai lực lượng này không được tham gia hội nghị.

Mình đấu tranh nhiều phiên, trước khi vào họp hội nghị mình đấu tranh cho lực lượng kháng chiến Lào, Campuchia tham gia hội nghị. Trong hội nghị mình cũng đấu tranh rất nhiều lần, nhưng mình là đơn thương độc mã cho nên không làm gì được.

PV: So với Hội nghị Geneve là 9 bên thì đến Hội nghị Paris thực chất chỉ có 2 bên là Việt Nam và Mỹ. Chúng ta đã đàm phán trực tiếp với Mỹ mà không phải thông qua một khâu trung gian nào. Đây có được coi là một bài học mà chúng ta rút ra được từ Hội nghị Geneve không?

GS Vũ Dương Huân: Từ những bài học sau này, chúng ta rút kinh nghiệm rất sâu sắc và rất giá trị cho đàm phán ở Paris. Đàm phán ở Paris, chúng ta không đàm phán đa bên mà đàm phán trực tiếp với Mỹ, cho nên không ai can thiệp vào cuộc đàm phán đó.

PV: Như vậy là chúng ta đã hoàn toàn độc lập, tự chủ và tự quyết các vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc, không để các nước lớn chi phối, thưa ông?

GS Vũ Dương Huân: Trước hết, đường lối đối ngoại của chúng ta là phải độc lập, tự chủ. Nếu không có độc lập, tự chủ thì sẽ bị người khác chèo kéo, bị o ép, bị gây áp lực, phải thay đổi lập trường….điều đó cực kỳ nguy hiểm.

Cho nên, bài học lớn nhất rút ra được là bài học về độc lập, tự chủ. Độc lập, tự chủ thì mới quyết định được chiến lược, sách lược đàm phán của mình; độc lập, tự chủ thì mới sắp xếp được lực lượng của mình. Sức mạnh của ngoại giao chính là sức mạnh tổng hợp của trong nước. Cho nên, để có được độc lập, tự chủ, để đàm phán thành công thì cái lớn nhất chính là phải củng cố sức mạnh tổng hợp quốc gia. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng. Và bây giờ Việt Nam muốn có độc lập, tự chủ, giữ được độc lập, tự chủ, rồi thực hiện chính sách cân bằng nước lớn thì mình phải có sức mạnh. Chứ anh có độc lập, tự chủ nhưng anh không có sức mạnh thì cũng sẽ bị lôi kéo, gây sức ép.

PV: Tại Hội nghị Geneve, lần đầu tiên nền ngoại giao non trẻ Việt Nam tham gia một diễn đàn đàm phán đa phương phức tạp, chịu sự chi phối của các nước lớn và nằm trong sự tính toán về lợi ích giữa các nước. Vậy theo Giáo sư, trong đối ngoại hiện nay, đâu là nguyên tắc tối thượng để chúng ta không bị cuốn theo những tính toán của các nước lớn?

GS Vũ Dương Huân: Muốn đàm phán thì phải có nhân nhượng. Hai bên phải nhân nhượng với nhau thì đàm phán mới tiến lên. Anh cứ giữ quan điểm lập trường của anh mà không đáp ứng quan điểm lập trường của bên đối tác, đối tượng thì không bao giờ đàm phán tiến lên.

Phải nhân nhượng nhưng chính Bác Hồ nói là nhân nhượng phải có nguyên tắc, chứ không phải bằng mọi giá, bằng mọi cách. Thế nào là nguyên tắc, tôi cho rằng, nguyên tắc lớn nhất, to nhất chính là lợi ích quốc gia dân tộc.

PV: Xin cảm ơn ông.

Tháng 1/1954, ngoại trưởng 4 nước Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp họp tại Berin và quyết định sẽ triệu tập hội nghị quốc tế ở Geneva, Thuỵ Sỹ để giải quyết hai vấn đề là chiến tranh ở Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương. Ngày 26/4/1954, khi Quân đội nhân dân Việt Nam kết thúc tấn công đợt 2 của Chiến dịch Điện Biên Biên Phủ thì Hội nghị Geneva bắt đầu khai mạc. Tham dự hội nghị có đại diện của 9 bên: Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, chính quyền Bảo Đại, Campuchia và Lào. Ban đầu, Hội nghị chỉ bàn về vấn đề chiến tranh Triều Tiên.

Ngày 7/5/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ của ta toàn thắng. Từ Việt Nam, tin tức nhanh chóng đến được Hội nghị. Ngay hôm sau, vấn đề Đông Dương đã được đưa lên bàn nghị sự. Phái đoàn Việt Nam lúc đó do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn đến dự hội nghị với tư thế của một dân tộc chiến thắng. Lập trường cơ bản của Việt Nam là hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và toàn vẹn lãnh thổ. Nước Pháp phải công nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam và của Lào, Campuchia.

Trải qua 75 ngày đàm phán với 31 phiên họp, trong đó có 8 phiên họp toàn thể, 21 phiên họp cấp trưởng đoàn cùng nhiều cuộc tiếp xúc song phương và đa phương, Hiệp định Geneva được ký kết. Theo Hiệp định đã ký kết, nước Việt Nam bị tạm thời chia cắt thành hai miền qua vĩ tuyến 17. Nhưng sự chia cắt đó chỉ là tạm thời. Hai miền phải thống nhất trước tháng 7 năm 1956 bằng tổng tuyển cử.

Trường Giang // https://vov.vn

Views: 375

The post 70 năm Hiệp định Geneve: Sức ép trên bàn đàm phán hòa bình appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Bài học lớn nhất từ Hiệp định Geneve 1954 là tinh thần độc lập, tự chủ https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/baihoclonnhattuhiepdinhgeneve.html Fri, 19 Jul 2024 07:47:53 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28438 Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam BÀI HỌC

The post Bài học lớn nhất từ Hiệp định Geneve 1954 là tinh thần độc lập, tự chủ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam

BÀI HỌC LỚN NHẤT TỪ HIỆP ĐỊNH GENEVE 1954 LÀ TINH THẦN ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ

Bài học lớn nhất nhìn từ Hiệp định Geneve 1954 là tinh thần độc lập, tự chủ, kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.

Chỉ đúng một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, ngày 8/5/1954, Hội nghị Geveve bắt đầu bàn về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Trải qua 75 ngày đàm phán hết sức căng thẳng, phức tạp, Hiệp định Geneve đã chính thức được ký vào ngày 21/7/1954. Bản Hiệp định này đã khẳng định độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam…

Hiệp định Geneve là mốc son lịch sử của dân tộc

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn”. Có thể khẳng định, chiến thắng Điện Biên Phủ chính là cái chiêng tạo tiếng vang toàn cầu, là nhân tố mang tính quyết định đưa phái đoàn của Chính phủ Việt Nam đến bàn Hội nghị cũng như tạo ưu thế cho ta trên bàn đàm phán.

Hội nghị Geneve (Thụy Sĩ) năm 1954 bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương – Ảnh tư liệu

Tại sự kiện lịch sử này, Việt Nam đã lần đầu tiên tham gia một hội nghị đa phương trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến hết sức phức tạp. Các nước lớn tham gia hội nghị đều có mục tiêu và toan tính lợi ích riêng. Tuy nhiên, thông qua phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, kiên định về nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách lược, đoàn đàm phán của Ta đã đạt được những kết quả quan trọng trên bàn Hội nghị.

Việc ký kết Hiệp định Geneve năm 1954 là một thắng lợi có ý nghĩa đặc biệt trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta, mở ra giai đoạn mới cho cách mạng Việt Nam tiến tới hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đây là văn bản pháp lý quốc tế hết sức quan trọng. Lần đầu tiên các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được các nước lớn công nhận tại một hội nghị đa phương.

Theo đó, Pháp và các nước tham gia hội nghị “cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”, “tuyệt đối không can thiệp vào công việc nội trị” của Việt Nam, Lào và Campuchia. Pháp buộc phải đình chỉ chiến sự và rút hoàn toàn quân đội khỏi lãnh thổ ba nước Đông Dương…

Gần 20 năm sau, Hiệp định Paris năm 1973 đã một lần nữa khẳng định lại những cơ sở pháp lý quan trọng này: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Geneve năm 1954 về Việt Nam đã công nhận”.

Bên cạnh đó, Hiệp định Geneve năm 1954 cũng là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử thế giới, đã tạo nguồn cảm hứng và cổ vũ to lớn cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên khắp toàn cầu, vì độc lập, tự do, hòa bình, dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội; đồng thời mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới.

Phát huy tinh thần Hiệp định Geneve trong bối cảnh hiện nay

70 năm trôi qua kể từ ngày Hiệp định Geneve về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết, đặc biệt là từ khi Đảng tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, đất nước ta đã đạt được những thắng lợi vẻ vang và những thành tựu to lớn. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Có thể nói, chưa bao giờ vị thế, uy tín và hình ảnh một nước Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển năng động, là bạn bè thuỷ chung, chân thành, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm lại nổi bật trên trường quốc tế như hiện nay”.

Mặc dù tình hình quốc tế và khu vực đã có nhiều thay đổi và diễn biến hết sức nhanh chóng, khó lường nhưng tinh thần và nhiều kinh nghiệm quý báu từ Hội nghị Geneve 1954 vẫn còn ý nghĩa sâu sắc cho chúng ta trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.

Bài học lớn nhất nhìn từ Hiệp định Geneve 1954 là tinh thần độc lập, tự chủ, kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong bối cảnh Hội nghị Geneva được tổ chức theo sáng kiến của các nước và chịu sự tác động, can dự của các nước lớn, đoàn đàm phán của Việt Nam vẫn kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, thể hiện trong việc xác định và bám sát các mục tiêu, nguyên tắc đàm phán dù linh hoạt về sách lược.

Tướng Pháp (bên trái) và Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu ký Hiệp định Geneve tháng 7/1954 – Ảnh tư liệu

Thực tế đã chứng minh, mặc dù các cường quốc có khả năng chi phối các vấn đề quốc tế nhưng các nước nhỏ hơn thông qua việc hoạch định, triển khai chính sách đối ngoại đúng đắn có thể tác động trở lại cục diện. Trong bối cảnh hiện nay, các quốc gia, bao gồm các nước lớn luôn vì các mục tiêu và toan tính lợi ích riêng. Vì vậy, trong tham gia hợp tác quốc tế, chỉ có kiên định độc lập, tự chủ mới giúp chúng ta giữ vững thế chủ động và bảo đảm cao nhất lợi ích của quốc gia và dân tộc.

Cùng với đó, có thể nói, thắng lợi của Việt Nam tại Hội nghị Geneve dựa trên nền tảng sức mạnh đoàn kết dân tộc và sự phối hợp hiệu quả của nhiều mặt trận. Trong đó, cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta được bạn bè quốc tế và các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình và nhân dân trên thế giới ủng hộ, cổ vũ. Việc này đã góp phần tạo nên sức mạnh của thời đại cho thắng lợi của Hội nghị Geneve.

Trong tình hình hiện nay, Việt Nam ngày càng chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, nêu cao phương châm “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Công tác đối ngoại, nhất là ngoại giao nhân dân cần phải tiếp tục được chú trọng và đẩy mạnh nhằm vận động, kêu gọi sự chia sẻ, ủng hộ của cộng đồng quốc tế và khu vực đối với các vấn đề liên quan lợi ích, đặc biệt là lợi ích cốt lõi của Việt Nam.

Quan trọng hơn cả, bài học bao trùm nhất từ thành công của Hội nghị Geneve năm 1954 chính là sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta nói chung và mặt trận ngoại giao nói riêng. Đảng đã đề ra chủ trương, đường lối và sách lược cách mạng đúng đắn, bảo đảm cao nhất lợi ích của quốc gia, dân tộc.

Phát huy tinh thần và các bài học kinh nghiệm từ việc ký kết Hiệp định Geneve năm 1954 và truyền thống vẻ vang của cách mạng Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ra sức phấn đấu, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng trên các lĩnh vực, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Quốc Hùng // https://vov.vn

Nguồn:

  1. Ban Tuyên giáo 
  2. Báo điện tử Đảng Cộng sản 
  3. Báo điện tử Đảng Cộng sản 
  4. Tạp chí Cộng sản 
  5. Báo Chính phủ 
  6. Báo Chính phủ 
  7. Báo Dân trí 
  8. Cổng thông tin tỉnh Tây Ninh

Views: 1117

The post Bài học lớn nhất từ Hiệp định Geneve 1954 là tinh thần độc lập, tự chủ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
75 ngày đấu trí tại Hội nghị Geneve năm 1954 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/75ngay-dau-tri-tai-hoi-nghi-geneve.html Wed, 17 Jul 2024 03:43:17 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28402 Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam 75 NGÀY

The post 75 ngày đấu trí tại Hội nghị Geneve năm 1954 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam

75 NGÀY ĐẤU TRÍ TẠI HỘI NGHỊ GENEVE NĂM 1954

Trải qua 75 ngày đấu trí cân não trên bàn đàm phán với các cường quốc, nền ngoại giao Việt Nam đã thành công vang dội với việc ký kết Hiệp định Geneve vào ngày 21/7/1954.

Cách đây 70 năm (năm 1954) tại thành phố Geneve, Thụy Sỹ đã diễn ra Hội nghị về chấm dứt chiến sự và lập lại hòa bình ở Đông Dương. Trải qua 75 ngày đấu trí cân não trên bàn đàm phán với các cường quốc, nền ngoại giao Việt Nam đã đạt được thành công vang dội với việc ký kết Hiệp định Geneve vào ngày 21/7/1954; khẳng định tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam…

Hội nghị Geneve (Thụy Sỹ) năm 1954 (Ảnh tư liệu Bộ Ngoại giao).

Chỉ đúng một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, ngày 8/5/1954, Hội nghị Geveve bắt đầu bàn về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn”. Có thể khẳng định, chiến thắng Điện Biên Phủ chính là cái chiêng tạo tiếng vang toàn cầu, là nhân tố mang tính quyết định đưa đoàn Việt Nam đến bàn Hội nghị cũng như tạo ưu thế cho Ta trên bàn đàm phán.

Tại sự kiện lịch sử này, Việt Nam đã lần đầu tiên tham gia một hội nghị đa phương trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến hết sức phức tạp. Các nước lớn tham gia hội nghị đều có mục tiêu và tính toán lợi ích riêng. Tuy nhiên, thông qua phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, đoàn đàm phán của Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng trên bàn Hội nghị.

Những tính toán lợi ích của các bên tham gia

Hội nghị Geneve năm 1954 về chấm dứt chiến sự và lập lại hòa bình ở Đông Dương được tổ chức theo quyết định của Hội nghị ngoại trưởng bốn nước lớn gồm: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp tại Berlin tháng 2/1954 để giải quyết vấn đề Triều Tiên và chiến tranh tại Đông Dương. Hội nghị Geneve khai mạc 8/5/1954 và kết thúc vào ngày 21/7/1954.

Thành phần tham dự Hội nghị có 9 bên gồm: Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc gia Việt Nam (thuộc Liên Hiệp Pháp do Quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu, ủy quyền cho Pháp tham dự trực tiếp Hội nghị), Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia.

Các thành viên đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị Geneve, năm 1954 (Nguồn: Lưu trữ Bộ Ngoại giao Việt Nam)

Đầu tiên, về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hội nghị chính thức khai mạc một ngày sau Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử. Do đó, có thể nói đoàn Việt Nam tham dự hội nghị với tâm thế người chiến thắng. Đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng là Trưởng đoàn. Cùng với đó, tham gia phái đoàn của ta còn có Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Bộ Công thương Phan Anh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Công Tường, Cục trưởng Cục Tác chiến Hà Văn Lâu…

Việt Nam tham gia Hội nghị Geneve với lập trường cơ bản là hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ. “Phương châm đấu tranh của ta là vừa đánh, vừa nói chuyện. Phải chủ động cả hai mặt nhưng yếu tố quyết định vẫn là đấu tranh quân sự. Ta càng đánh càng thắng, nói chuyện càng thuận lợi… Phải tích cực chủ động cả về quân sự lẫn ngoại giao”, Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng nêu rõ trong báo cáo trước Hội đồng Chính phủ ngày 15/3/1954.

Trước đó, xác định tầm quan trọng của việc phải giành được thắng lợi tại Hội nghị Geneve, tháng 3/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gặp, làm việc với lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc và Liên Xô để vận động và thúc đẩy sự ủng hộ. Qua làm việc với phía Trung Quốc và Liên Xô, Việt Nam nhận thấy cả hai nước đều ủng hộ Việt Nam tham gia Hội nghị Geneve để đi đến một giải pháp hòa bình cho cuộc chiến tranh Đông Dương. Việt Nam cũng hiểu rõ rằng, cả hai nước đều vì lợi ích riêng mà thúc đẩy Hội nghị Geneve. Cả Liên Xô và Trung Quốc đều mong muốn hòa hoãn với Mỹ và phương Tây, giảm căng thẳng tình hình thế giới để tập trung mục tiêu xây dựng đất nước…

Về phía Trung Quốc, nước này đến Hội nghị với mục tiêu sớm đạt được một giải pháp hòa bình ở Đông Dương để tránh sự can thiệp của Mỹ, tránh quốc tế hóa chiến tranh Đông Dương và đẩy chiến sự xa khỏi biên giới, đảm bảo an ninh quốc gia. Tại Geneve, Trung Quốc còn có mục tiêu quan trọng là thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với các nước Tây Âu nhằm phá bao vây, cấm vận của Mỹ; tiến tới gia nhập Liên Hợp Quốc và giải quyết vấn đề Đài Loan…

Về phía Pháp, nước này đến Hội nghị Geneve với mong muốn đạt được một giải pháp đình chiến ít có hại nhất; chủ trương hạn chế mức tối đa thắng lợi của cách mạng Việt Nam và Đông Dương, chia cắt Việt Nam, giữ Lào và Campuchia càng nguyên vẹn càng tốt. Pháp còn có hai mục tiêu quan trọng là bảo toàn quân đội viễn chinh để tiếp tục giữ các thuộc địa còn lại, trấn an dư luận trong nước… Trong một số vấn đề, Pháp nhận được sự ủng hộ từ Mỹ, Anh.

75 ngày đấu trí tại Hội nghị Geneve năm 1954

Hội nghị Geneve trải qua 75 ngày với 31 phiên họp, trong đó có 7 phiên toàn thể và 24 phiên họp cấp Trưởng đoàn. Diễn biến của Hội nghị có thể chia thành 3 giai đoạn chủ yếu:

Giai đoạn 1 (từ 08/5/1954 – 19/6/1954), các bên tập trung thúc đẩy lập trường, quan điểm của mình. Theo đó, Pháp nhấn mạnh chỉ giải quyết vấn đề quân sự, không đề cập vấn đề chính trị, đồng thời tách vấn đề Lào, Campuchia ra khỏi vấn đề Việt Nam. Mỹ ủng hộ quan điểm của Pháp. Trong khi đó, đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa yêu cầu phải có đại diện kháng chiến Lào và Campuchia tham dự; khẳng định lập trường giải quyết đồng thời cả hai vấn đề quân sự và chính trị và cả ba vấn đề Việt Nam, Lào, Campuchia.

Việt Nam yêu cầu Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia. Đặc biệt, Việt Nam nêu cơ sở quan trọng nhất cho chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương là quân đội nước ngoài phải rút quân khỏi ba nước Đông Dương. Trung Quốc, Liên Xô ủng hộ lập trường của Việt Nam. Trưởng đoàn Trung Quốc Chu Ân Lai đưa ra hai điều kiện để lập lại hòa bình ở Đông Dương: Pháp chấm dứt chiến tranh thực dân, Hoa Kỳ chấm dứt can thiệp vào Đông Dương.

Các nhà báo quốc tế tại sân bay Geneve, chờ đợi ghi hình các đoàn đại biểu tới dự Hội nghị. (Ảnh: Tư liệu)

Giai đoạn 2 (từ 20/6/1954 – 10/7/1954), đây là giai đoạn đấu trí căng thẳng giữa các bên. Trong giai đoạn này, các bên liên quan tiến hành nhiều cuộc gặp gỡ, tiếp xúc riêng, thảo luận nhiều vấn đề quan trọng. Trong đó, Trung Quốc và Pháp tập trung thảo luận về vấn đề vạch vĩ tuyến nào để chia cắt Việt Nam. Sau cuộc gặp giữa Trưởng đoàn Trung Quốc Chu Ân Lai và Thủ tướng Pháp Mendes France ngày 23/6/1954, Pháp chuyển trọng tâm đàm phán sang vấn đề chia cắt Việt Nam và nêu vấn đề chia cắt ở vĩ tuyến 19 với Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Từ ngày 3 – 5/7/1954, tại Liễu Châu (Trung Quốc), Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp Trưởng đoàn Trung Quốc Chu Ân Lai để bàn về các vấn đề phân vùng, thời hạn tổng tuyển cử, vấn đề Lào và Campuchia, song hai bên còn những khác biệt. Theo đó, Ta muốn vĩ tuyến 16, phía Trung Quốc đề nghị vĩ tuyến 17; về thời hạn tổng tuyển cử, Ta nêu 6 tháng, phía Trung Quốc đề nghị hai năm.

Đến ngày 9/7/1954, tại cuộc họp tiểu ban quân sự, Ta và Pháp tiếp tục không đạt được sự đồng thuận về vấn đề chia cắt vĩ tuyến. Đến ngày 10/7/1954, Trưởng đoàn Trung Quốc Chu Ân Lai điện khuyên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên nhượng bộ về vấn đề vĩ tuyến, về Lào, về Ủy ban kiểm soát và giám sát quốc tế để sớm đạt được Hiệp định. Như vậy các cuộc họp hẹp ở Geneve trong giai đoạn này không có bước đột phá đáng kể.

Giai đoạn 3 (từ 11-21/7/1954), vào 10 ngày cuối cùng của Hội nghị Geneve đã diễn ra nhiều cuộc trao đổi, đàm phán tay đôi, tay ba cũng như giữa nhiều bên. Đây cũng là giai đoạn gay cấn nhất, căng thẳng nhất để đi được đến thỏa thuận cuối cùng. Trong giai đoạn này, các đoàn đã làm việc hết sức khẩn trương để giải quyết những vấn đề then chốt. Trong đó, đáng chú ý hơn cả là quá trình đàm phán gay cấn giữa đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đoàn Pháp về vấn đề phân chia vĩ tuyến, thời hạn tổ chức tổng tuyển cử, vấn đề đình chiến ở Lào và Campuchia…

Kết quả, tại cuộc họp toàn thể thứ 8 tiến hành từ 17 giờ 15 phút tới đêm 20/7/1954, chỉ vào phút chót, Trưởng đoàn các nước Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam mới đạt thỏa thuận lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến phân vùng và thời hạn tổng tuyển cử ấn định là hai năm. Tới 24h ngày 20/7/1954, Hiệp định Geneve về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết. Sau đó, Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào, Campuchia cũng được ký.

Đêm 20 rạng ngày 21/7/1954, đánh dấu kết thúc 75 ngày đấu trí căng thẳng và thành công vang dội cho đoàn Việt Nam. Theo đó, Hội nghị Geneve chính thức kết thúc, ra Tuyên bố gồm 13 điểm, trong đó quan trọng hơn cả là điều khoản các nước tham gia Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Quốc Hùng // https://vov.vn

Tài liệu tham khảo:

1. Báo Nhân dân (https://special.nhandan.vn/mot_ngoaile_cua_lichsu/index.html)

2. Báo Công luận (https://www.congluan.vn/dau-tri-o-geneva-post65340.html)

3. Tạp chí nông thôn mới (https://tapchinongthonmoi.vn/70-nam-chien-thang-dien-bien-phu-cuoc-dau-tri-can-nao-26027.html)

4. Báo Tiền phong (https://tienphong.vn/geneva-cuoc-dau-ngoai-giao-can-nao-post706765.tpo)

Views: 374

The post 75 ngày đấu trí tại Hội nghị Geneve năm 1954 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Hiệp định genève – thắng lợi ngoại giao mang ý nghĩa thời đại https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/thang-loi-ngoai-giao-mang-y-nghia.html Wed, 17 Jul 2024 02:57:33 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28398 Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam HIỆP ĐỊNH

The post Hiệp định genève – thắng lợi ngoại giao mang ý nghĩa thời đại appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam

HIỆP ĐỊNH GENÈVE – THẮNG LỢI NGOẠI GIAO MANG Ý NGHĨA THỜI ĐẠI

Sau những cuộc đấu trí, tranh luận căng thẳng, đêm 20, rạng ngày 21/7/1954, đại diện các nước tham dự Hội nghị Genève (trừ Mỹ) đã nhất trí với Bản tuyên bố cuối cùng về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Ngày 22/7/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi sau khi Hội nghị Genève thành công, khẳng định: “Ngoại giao ta đã thắng lợi to”.

Hội nghị Genève (Thụy Sĩ) năm 1954 bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương. Ảnh: Tư liệu

Ngày 7/5/1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn những nỗ lực chiến tranh của thực dân Pháp trên bán đảo Đông Dương nói chung, ở Việt Nam nói riêng. Một ngày sau đó, Hội nghị Genève bàn về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương chính thức khai mạc. Quy luật của đấu tranh quốc tế là ngoại giao luôn luôn phải dựa vào thực lực. Chiến thắng Điện Biên Phủ có ý nghĩa dân tộc và có tiếng vang quốc tế rất rộng lớn. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Đoàn đại biểu Chính phủ ta do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu, bước vào hội nghị với tư thế của người chiến thắng, trong khi đoàn của Bidault (Pháp) mặc y phục lễ tang với bộ mặt đau buồn.

Trước đó, vào ngày 27/7/1953, Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên được ký kết. Hiệp định này có tác động rất lớn tới việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương trong chính trường nước Pháp. Tại cuộc họp bàn về vấn đề Đông Dương của Quốc hội Pháp diễn ra từ ngày 23 đến 27/10/1953, nhiều nghị sĩ đã lên tiếng đòi thương lượng với Việt Minh để đi đến kết thúc chiến tranh. Trong khi đó, phái chủ chiến mặc dù đã cảm nhận được rằng khó có thể đánh bại, nhưng vẫn ngoan cố theo đuổi cuộc chiến; hy vọng cùng với sự viện trợ và sự giúp đỡ toàn diện của Mỹ có thể giành lấy một thắng lợi về quân sự, buộc Chính phủ Hồ Chí Minh phải chấp nhận đàm phán theo những yêu cầu có lợi cho Pháp.

Cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của quân và dân Việt Nam đã đập tan Kế hoạch Navarre – cố gắng chiến tranh cao nhất, nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Chiến thắng đó là một đòn chí mạng giáng vào ý chí xâm lược, âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh, buộc thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phải chấp nhận nói chuyện một cách nghiêm túc, sòng phẳng với Việt Nam dân chủ cộng hòa về việc tìm giải pháp cho vấn đề Đông Dương.

Tham dự Hội nghị Genève có 9 nước: Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam dân chủ cộng hòa, Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Campuchia và Vương quốc Lào. Việt Nam dân chủ cộng hòa đến hội nghị trong tư thế của người chiến thắng với mục tiêu giành độc lập và hòa bình cho Việt Nam, Lào và Campuchia. Cuối tháng 6, đầu tháng 7/1954, trong khi tại Hà Nội và các chiến trường khác ở Đông Dương, hoạt động quân sự và các phong trào đấu tranh chính trị đang diễn ra hết sức sôi động, thì tại Hội nghị Genève, các cuộc thương lượng gần như vẫn giậm chân tại chỗ, quan điểm của hai phía và các giải pháp cho vấn đề Đông Dương của các bên còn khác xa nhau khá nhiều. Thời gian này, chủ yếu diễn ra các cuộc gặp song phương không chính thức; trong đó, đáng chú ý có cuộc gặp tại Liễu Châu giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Chu Ân Lai (từ ngày 3 đến ngày 5/7) “để trao đổi một số ý kiến và nghiên cứu những biện pháp thích hợp với tình hình Đông Dương và tình hình quốc tế hiện tại nhằm đạt tới việc lập lại hòa bình”.

Trải qua 2 tháng rưỡi đàm phán với 8 phiên họp chính thức và 23 phiên họp phụ, Hội nghị Genève cũng đã đạt được kết quả cuối cùng. Hội nghị thông qua bản Tuyên bố về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương gồm 13 điều, trong đó có một số điều đáng chú ý như: Pháp cam kết rút hết quân, tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia; lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam; Tổng tuyển cử sẽ được tiến hành sau 2 năm… Đại diện 8 đoàn nhất trí thông qua các văn kiện của hội nghị; riêng đoàn Mỹ không nhất trí mà chỉ ra một tuyên bố ghi nhận. Hành động của đoàn Mỹ cho thấy sự phản ứng đối với kết quả của hội nghị, nhưng xa hơn thì đó là bước dọn đường cho việc không thi hành Hiệp định để hất cẳng và thế chân Pháp, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.

Tại Hội nghị Genève, Việt Nam lần đầu tiên tham gia một diễn đàn đa phương do các nước lớn chi phối; vả lại, mỗi nước đến hội nghị đều mang theo những toan tính riêng, đặc biệt là 4 nước lớn. Chính vì vậy, Việt Nam dân chủ cộng hòa đã không phát huy được hết những lợi thế mà chiến thắng Điện Biên Phủ cùng những chiến thắng khác trên chiến trường mang lại. Cho tới nay, về cơ bản, các nhà nghiên cứu thống nhất một số nội dung mà ta không giành được tại Hội nghị Genève, như: Định giới tuyến phân vùng không đạt yêu cầu tối thiểu là vĩ tuyến 16; định Tổng tuyển cử thống nhất là 2 năm và cuối cùng là không có. Cũng còn có ý kiến cho rằng, không có đại diện lực lượng kháng chiến Lào, Khmer; không có một vùng tập kết, dù nhỏ, cho lực lượng Khmer kháng chiến…

Về việc không có đại diện của kháng chiến Lào và Campuchia dự hội nghị, không có lý gì đáng bàn. Hội nghị tứ cường ở Berlin đã quyết định thành phần Hội nghị Genève; họ tính đến các nhà nước, chính phủ có vị trí được quốc tế công nhận. Về khu tập kết cho lực lượng kháng chiến Campuchia, thì lực lượng quá nhỏ bé, lực lượng chiến đấu chính là khoảng 1.000 quân tình nguyện Việt Nam; chưa có vùng giải phóng nào đáng kể. Campuchia hồi đó đã được Pháp công nhận độc lập từ năm 1952, vị thế khác chính quyền Bảo Đại, cho nên khó lòng đòi có khu vực tập kết.

Mặc dù còn một số điểm hạn chế nhất định, với Hiệp định Genève, Việt Nam dân chủ cộng hòa đã đạt được mục tiêu căn bản nhất là buộc Pháp phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, rút hết quân; Pháp và các nước khác phải công nhận các quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam: Độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ – điều mà 9 năm trước, tại Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, Pháp đã không chịu chấp nhận. Chúng ta có một miền Bắc hoàn toàn được giải phóng làm cơ sở để xây dựng thành hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước về sau này. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève, Việt Nam dân chủ cộng hòa có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế và có vai trò quan trọng trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Hiệp định Genève cũng đã tạo ra một cơ sở pháp lý và chỗ dựa về đạo lý để nhân dân Việt Nam đấu tranh với Mỹ trong cuộc trường chinh 21 năm sau đó. Từ đó, có thể khẳng định nhất quán rằng, Hiệp định Genève là thắng lợi của nhân dân Việt Nam; đồng thời, cũng là thắng lợi chung của các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc. Hiệp định Genève cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ đã cổ vũ mạnh mẽ cho các dân tộc thuộc địa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới vững tin vào chính nghĩa, đạo lý và công lý, đứng lên đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.

Hải Hà // https://www.bienphong.com.vn

Views: 375

The post Hiệp định genève – thắng lợi ngoại giao mang ý nghĩa thời đại appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Kỷ niệm 70 năm Hội nghị Genève (1954-2024): Từ bàn đàm phán Hội nghị Genève đến vĩ tuyến 17 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tu-ban-dam-phan-hoi-nghi-geneve.html Wed, 17 Jul 2024 02:49:21 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28392 Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam TỪ BÀN

The post Kỷ niệm 70 năm Hội nghị Genève (1954-2024): Từ bàn đàm phán Hội nghị Genève đến vĩ tuyến 17 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam

TỪ BÀN ĐÀM PHÁN HỘI NGHỊ GENÈVE ĐẾN VĨ TUYẾN 17

70 năm trôi qua, nhiều người vẫn chưa biết rõ: Tại sao có Hội nghị Genève năm 1954? Nguồn gốc, xuất xứ của hội nghị từ đâu, do ai đề xuất, để làm gì…? Tại sao các nước lớn lại chia cắt đất nước ta tại vĩ tuyến 17, để rồi cả dân tộc phải dốc hết sức chiến đấu cho ngày đoàn tụ, thống nhất Bắc – Nam liền một dải.

Đại tá Nguyễn Thanh Hà kể lại những chuyện xảy ra ở cầu Hiền Lương thời kỳ thực hiện Hiệp định Genève. Ảnh: Hải Luận

Việt Nam trên “bàn cờ” quốc tế

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954) chấn động địa cầu, dân và quân ta tiếp tục chiến đấu với quân Pháp để giải phóng một số địa phương còn lại trên lãnh thổ Việt Nam. Thời điểm này, quan hệ quốc tế có nhiều biến động, nước Pháp coi như bị kiệt quệ do chiến tranh ở Đông Dương, nước Anh muốn vớt vát vai trò quốc tế đang bị mai một dần trên trường quốc tế, nên chấp nhận sáng kiến của Liên Xô (Nga) triệu tập hội nghị “tứ cường” gốm các nước lớn: Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ. Các nước “tứ cường” này nhóm họp bàn những vấn đề có lợi ích và mối quan hệ quốc tế của họ.

Riêng Mỹ, lúc đầu muốn duy trì căng thẳng để thao túng Tây Âu, kiềm chế Liên Xô, nên không muốn dự họp với nhóm “tứ cường”. Về sau, Mỹ không thể bỏ qua lợi ích, âm mưu của mình, nên đã đồng ý tham gia họp. Hội nghị “tứ cường” không có thỏa thuận nào về các vấn đề châu Âu như dự định ban đầu, chỉ tập trung thảo luận các vấn đề đình chiến ở Triều Tiên và Đông Dương. Ông Vũ Khoan, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính Phủ thông tin: “Liên Xô thấy một mình “đơn thương độc mã” trong cuộc đối đầu với phương Tây, nên đòi phải có sự tham gia của Trung Quốc, là nước lớn ở vùng Viễn Đông, đồng thời có chung biên giới với cả Triều Tiên lẫn Đông Dương. Xét về quan hệ quốc tế, đây chính là cơ hội ngàn vàng đối với Trung Quốc đang khát khao và tranh thủ sự công nhận quốc tế, xác lập vai trò nước lớn của mình ở khu vực” [1] . Trung Quốc là thành viên tham gia đàm phán Hiệp định Genève.

Tóm lược bối cảnh ra đời hội nghị và đàm phán Hiệp định Genève năm 1954 như trên để thấy Việt Nam nằm trên “bàn cờ” quốc tế quan trọng như thế nào? Vậy, quốc gia nào và vì sao họ đã đưa ra “sáng kiến” chia cắt nước ta thành hai miền Bắc – Nam?

“Trong báo cáo đầu tiên gửi về nước ngày 4/5/1954, đồng chí Phạm Văn Đồng cho biết, lúc đầu là Anh, sau đó cả Mỹ và Pháp chủ trương chia cắt Đông Dương thành hai miền hoặc theo vĩ tuyến 20, hoặc theo vĩ tuyến 16. Không chỉ phương Tây mà Trung Quốc cũng có lập trường tương tự” [2].

Đại tướng Võ Nguyên Giáp xác định: “Ngày 29/6 (1954) xuất hiện bản ghi nhớ giữa Mỹ và Anh, bày tỏ sự đồng tình với những mục tiêu của Mănđét Pharăng (Thủ tướng Pháp) đề ra tại Hội nghị Genève, tán thành việc phân chia tạm thời Việt Nam thành hai miền để thực thi một cuộc ngừng chiến. Riêng về giới tuyến tạm thời, hai cường quốc này chọn vĩ tuyến 17 thay vĩ tuyến 18 do Pháp đề nghị” [3].

Đầu tháng 7/1954, ông Chu Ân Lai (trưởng đoàn đàm phán Trung Quốc) từ Genève trở về Trung Quốc, đề nghị gặp lãnh đạo Việt Nam tại Liễu Châu, thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, gần với biên giới nước ta. Bộ Chính trị cử Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc gặp trực tiếp Chu Ân Lai. Tại buổi gặp, đoàn Trung Quốc đã trao đổi với Bác Hồ về tình hình quốc tế và âm mưu của Pháp, Anh, Mỹ muốn chia cắt đất nước ta ra hai miền Bắc – Nam.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: “Bác nói, với so sánh lực lượng trên thực tế chiến trường hiện nay, ta đề ra vĩ tuyến 13 là hợp lý, vĩ tuyến 17 đối với ta là không thể chấp nhận, chí ít cũng phải giành được vĩ tuyến 16. Trước đây đã có tiền lệ khi đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật ở hai miền Nam, Bắc Đông Dương cũng lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới tạm”[4].

Cục diện chiến trường ở Việt Nam lúc đó, Pháp còn gần 50 vạn quân, lại thêm Mỹ giúp sức cả kinh tế và quân sự, thì rất ít có khả năng hòa bình thống nhất ở Việt Nam ngay được. Bác Hồ biết rất rõ, nếu muốn chấm dứt chiến tranh, phải chấp nhận một giới tuyến quân sự tạm thời giữa ta và địch. Mỹ nhất định không chịu từ bỏ Đông Nam Á, đang chuẩn bị một chiến lược mới rất nguy hiểm.

Hội nghị Genève họp cuối cùng vào ngày 20/7/1954, phía ta chấp nhận vĩ tuyến 17. Các bên tham gia hội nghị thừa nhận về nguyên tắc sự độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Thời hạn tiến hành Tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam, Bắc Việt Nam là hai năm. Một năm sau từ ngày ký hiệp định bắt đầu hiệp thương giữa hai miền về Tổng tuyển cử (20/7/1955), Tổng tuyển cử tiến hành vào tháng 7/1956. Cuộc đàm phán nhất trí chọn Ấn Độ, Ba Lan, Canada làm Ủy ban giám sát quốc tế thực hiện Hiệp định Genève, Ấn Độ giữ chức Chủ tịch.

Đoàn Mỹ không ký vào Hiệp định Genève, chỉ ra một bản tuyên bố ghi nhận và hứa sẽ không gây trở ngại cho việc thi hành hiệp định.

Hiệp định Genève thực thi tại vĩ tuyến 17

Ngày 22/7/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi gửi đồng bào, cán bộ và chiến sĩ cả nước nhân dịp Hiệp định Genève được ký kết: “Vì hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ của Tổ quốc mà 8, 9 năm nay, nhân dân, quân đội, cán bộ và Chính phủ ta đoàn kết chặt chẽ, trên dưới một lòng, chịu đựng gian khổ, vượt mọi khó khăn, kiên quyết kháng chiến và đã giành được nhiều thắng lợi vẻ vang… Ta đã thu được thắng lợi lớn: Chính phủ Pháp đã thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, thừa nhận quân đội Pháp sẽ rút khỏi đất nước ta. Từ nay, chúng ta phải ra sức đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc”[5].

Sông Bến Hải (Quảng Trị) – vĩ tuyến 17. Ảnh: Hải Luận

Thiếu tướng Văn Tiến Dũng (Tổng tham mưu trưởng) được chỉ định làm Trưởng đoàn đại biểu QĐND Việt Nam tham gia Ủy ban Liên hiệp đình chiến Trung ương. Ngày 1/8/1954, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng ký Quyết định số 33, thành lập Ban liên hiệp đình chiến Bình Trị Thiên. Đến cuối tháng 8/1954, những tên lính Pháp cuối cùng rút qua cầu Hiền Lương. Ngày 25/8/1954, Ban liên hiệp đình chiến Bình Trị Thiên đổi thành Ban liên hiệp Khu phi quân sự đóng ở thị trấn Hồ Xá, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.

Bộ Tư lệnh Liên khu 4 ra Quyết định số 817, ngày 1/8/1954, thành lập “Đại đội 1 Công an giới tuyến”. Cán bộ, chiến sĩ được tuyển chọn từ các đơn vị thuộc Tỉnh đội và Công an tỉnh Quảng Trị, chuyển sang làm nhiệm vụ Công an giới tuyến. Thành lập Đồn Công an liên hợp Cửa Tùng kiểm soát tàu thuyền ra vào cửa sông Bến Hải (Cửa Tùng) và Đồn Công an liên hợp Hiền Lương (cầu Hiền Lương), đây là địa điểm quy định chính quyền hai miền sẽ gặp nhau hiệp thương, tuyển cử thống nhất nước nhà.

Đại tá Nguyễn Thanh Hà, nguyên Chỉ huy trưởng BĐBP Quảng Trị nhớ lại: “Việc bảo vệ giới tuyến quân sự tạm thời và khu phi quân sự do lực lượng công an và cảnh sát hai bên bờ sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) đảm nhiệm. Mỗi bên có một đại đội gồm 100 người, được trang bị 100 khẩu súng, làm nhiệm vụ kiểm soát người qua lại giới tuyến và vào ra khu phi quân sự. Đồn Công an liên hợp Cửa Tùng được triển khai làm việc từ ngày 23/11/1954. Đồn Cửa Tùng có nhiệm vụ kiểm soát thuyền bè ra vào cửa sông Bến Hải. Theo thỏa thuận hai bên, Đồn bờ Bắc sang đi tuần ở bờ Nam sông Bến Hải. Đồn cảnh sát bờ Nam (ngụy) sang đi tuần bờ Bắc. Mỗi lần đổi bờ đi tuần giữa đồn công an bờ Bắc – đồn cảnh sát bờ Nam, đều có sự chứng kiến của hai đại diện chỉ huy đại đội công an – cảnh sát. Hai đồn đã làm việc với nhau từ ngày 23/11/1954 đến ngày 23/10/1966, đồn cảnh sát ngụy ở Cát Sơn bỏ chạy vào thị xã Đông Hà, coi như chấm dứt hoạt động Đồn liên hiệp Cửa Tùng”.

Ngày 16/10/1955, Tổng thống Ngô Đình Diệm (ngụy) ban hành nghị định thành lập quân Trung Lương sát bờ sông Bến Hải, gồm 3 xã Trung Giang, Trung Hải và Trung Sơn. Đồng thời tuyên bố phá bỏ Hiệp định Genève, bắt đầu việc ngăn sông, cấm chợ, không cho nhân dân hai bờ sông Bến Hải qua lại giới tuyến, biến giới tuyến quân sự tạm thời thành tuyến chia cắt hai miền Bắc – Nam lâu dài. Ngô Đình Diệm hô hào lấp sông Bến Hải tiến quân ra Bắc. Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, buộc cả dân tộc ta phải cầm súng chiến đấu đến ngày thống nhất non sông.

Hải Luận // https://www.bienphong.com.vn

[1] Vũ Khoan Tâm tình gửi lại, NXB Hội Văn học, trang 82

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam. Điện Biên Phủ, Hội nghị Genève. Văn kiện Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật. Hà Nội 2014, trang 372.

[3] Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2000, trang 427.

[4] Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2000, trang 428.

[5] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 1996, trang 321-323.

Views: 751

The post Kỷ niệm 70 năm Hội nghị Genève (1954-2024): Từ bàn đàm phán Hội nghị Genève đến vĩ tuyến 17 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Đẩy mạnh tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (21/7/1954-21/7/2024) https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/70-nam-ngay-ky-hiep-dinh-gionevo-2.html Tue, 02 Jul 2024 03:49:47 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28185 Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ĐẨY MẠNH

The post Đẩy mạnh tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (21/7/1954-21/7/2024) appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam

ĐẨY MẠNH TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY KÝ HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ VỀ ĐÌNH CHỈ CHIẾN SỰ Ở VIỆT NAM (21/7/1954-21/7/2024)

Nhìn lại 7 thập kỷ kể từ ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, đặc biệt từ khi Đảng tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, đất nước ta đã đạt được những thắng lợi vẻ vang và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đến nay, quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên gấp nhiều lần; đời sống Nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai hiệu quả. 

Từ một nước bị bao vây, cấm vận, chúng ta đã mở rộng, làm sâu sắc quan hệ với 193 quốc gia, trong đó có 3 nước có quan hệ đặc biệt, 7 nước đối tác chiến lược toàn diện, 11 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Sức mạnh tổng hợp, cơ đồ, vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao, được bạn bè quốc tế tín nhiệm đề cử gánh vác nhiều trọng trách quốc tế quan trọng trong các cơ chế, diễn đàn đa phương như: Liên hợp quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), APEC, ASEAM, WTO… nhất là: ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021 (với số phiếu kỷ lục 192/193); Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77; thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc 2023-2025, ủy ban Liên Chính phủ Bảo vệ Di sản Văn hóa Phi Vật thể của UNESCO; ủy ban Luật pháp Quốc tế nhiệm kỳ 2023-2027, Chủ tịch ASEAN các năm 1998, 2010, 2020… đóng góp tích cực cho công cuộc gìn giữ hòa bình, an ninh ở khu vực và trên thế giới. “Có thể nói, chưa bao giờ vị thế, uy tín và hình ảnh một nước Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển năng động, là bạn bè thủy chung, chân thành, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm lại nổi bật trên trường quốc tế như ngày nay”.

70 năm trôi qua, tình hình quốc tế và khu vực có nhiều thay đổi nhưng Hội nghị Giơnevơ vẫn để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho chúng ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau. Đó là trong tình hình quốc tế hết sức phức tạp, chịu sự chi phối của các nước lớn, cần nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; kiên định về nguyên tắc, linh hoạt, mềm dẻo về sách lược, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; biết giành thắng lợi từng bước trong cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ vì độc lập, tự do của Tổ quốc; tăng cường tiềm lực, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước là nhân tố bên trong có ý nghĩa quyết định, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động đối ngoại để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình và công lý cũng như Nhân dân thế giới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;  phát huy vai trò của công tác đối ngoại, tăng cường đối thoại, sử dụng biện pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp, xung đột trong quan hệ với các nước, bảo đảm phù hợp với luật pháp quốc tế; ra sức giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định vì lợi ích của Nhân dân Việt Nam và Nhân dân thế giới.

Trong thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực dự báo sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn sẽ ngày càng quyết liệt. Nhiều điểm nóng về an ninh tiếp tục tồn tại, có nguy cơ lan rộng, làm xuất hiện các hình thái chiến tranh, loại hình tác chiến, không gian chiến lược mới. Khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ, tạo ra những biến đổi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. An ninh truyền thống cũng như phi truyền thống, nhất là thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, năng lượng, an ninh mạng… đặt ra nhiều thách thức đối với các quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Phát huy bài học kinh nghiệm từ việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ra sức phấn đấu, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng trên các lĩnh vực; xây dựng nền ngoại giao toàn điện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao Nhân dân. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, cần luôn luôn bình tĩnh, tỉnh táo nắm bắt thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bìnhhữu nghịhợp tác và phát triển; đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoạiBảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diệnsâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; tiếp tục phát huy vai trò của công tác đối ngoại trong việc giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định; huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín quốc gia, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đối ngoại là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn điện của Đảng, quản lý tập trung của Nhà nước, sự gắn kết nhịp nhàng của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân cùng đối ngoại chính trị, đối ngoại kinh tế, đối ngoại văn hóa, đối ngoại an ninh và đối ngoại các lĩnh vực khác.

Thông qua sự kiện đặc biệt này, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã chỉ đạo, định hướng các cơ quan báo chí, các trang tin điện tử, các trang, nhóm công khai trên mạng xã hội của tỉnh đẩy mạnh công tác tuyên truyền, kết hợp theo dõi nắm bắt dư luận xã hội; chủ động tham mưu, chỉ đạo, tổ chức đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc, kích động của các thế lưc thù địch, phản động trên không gian mạng về sự kiện; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm ở các cơ quan, địa phương, đơn vị trên địa bàn tỉnh. Trong đó chú trọng tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân nhận thức sâu sắc về đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng trong cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ của dân tộc, đặc biệt là trên mặt trận ngoại giao, góp phần mở ra cục diện mới cho cách mạng Việt Nam; qua đó tăng cường, bồi đắp niềm tin, kế thừa, phát huy cao độ những bài học kinh nghiệm từ việc đàm phán, ký Hiệp định Giơnevơ trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Thông qua tuyên truyền để tri ân, tôn vinh những cống hiến, đóng góp lớn lao của các tầng lớp Nhân dân đã làm nên thắng lợi vẻ vang của nền ngoại giao nói riêng và cách mạng Việt Nam nói chung; khơi dậy tinh thần yêu nước, củng cố sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác, ủng hộ, giúp đỡ của Nhân dân, bạn bè quốc tế đối với công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cuộc đấu tranh chính nghĩa bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Phát huy nội lực, khai thác và tranh thủ ngoại lực, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; những thành tựu to lớn của ngoại giao Việt Nam 70 năm qua, nhất là trong gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo; gắn với tuyên truyền nội dung cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”./.

Bích Hương // https://btgtu.binhthuan.dcs.vn

Views: 375

The post Đẩy mạnh tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (21/7/1954-21/7/2024) appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Hiệp định Geneve: Bài học quý cho hoạt động đối ngoại quốc phòng, an ninh trong tình hình mới https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/hiep-dinh-geneve-bai-hoc-quy.html Fri, 21 Jun 2024 08:03:57 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=27881 Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam HIỆP ĐỊNH

The post Hiệp định Geneve: Bài học quý cho hoạt động đối ngoại quốc phòng, an ninh trong tình hình mới appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam

HIỆP ĐỊNH GENEVE: BÀI HỌC QUÝ CHO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI QUỐC PHÒNG, AN NINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Mặc dù 70 năm đã trôi qua, nhưng Hiệp định Geneve vẫn vẹn nguyên ý nghĩa lịch sử, giá trị hiện thực và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý cho hoạt động ngoại giao nói chung và đối ngoại quốc phòng, an ninh nói riêng trong tình hình hiện nay.

Hội nghị Geneve (Thụy Sĩ) năm 1954 bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương – Ảnh tư liệu

Hiệp định Geneve là thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam

Trải qua 75 ngày đêm với 31 phiên họp cùng rất nhiều cuộc gặp, tiếp xúc song phương và đa phương bên lề hội nghị, ngày 21/7/1954, Hội nghị Geneve kết thúc, thông qua Tuyên bố chung. Đồng chí Thiếu tướng Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, đại diện Bộ Tổng Tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam và Thiếu tướng Denteil, đại diện Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp ở Đông Dương đã ký Hiệp định về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam.

Việc ký kết Hiệp định Geneve là thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam, Hiệp định đã buộc thực dân Pháp phải kết thúc chiến tranh, công nhận quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Thắng lợi đó bắt nguồn từ sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; từ truyền thống yêu nước, ý chí quật cường, tinh thần mưu trí, dũng cảm của toàn dân và toàn quân ta, từ truyền thống hòa bình và hòa hiếu của ngoại giao Việt Nam và là kết quả của sự kết hợp sức mạnh tổng hợp giữa đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao, phát huy tốt nhất những thắng lợi trên chiến trường để tạo thế mạnh trên bàn Hội nghị.

Thành công của Hội nghị cũng khẳng định vai trò, để lại dấu ấn đậm nét của lực lượng vũ trang, với nòng cốt là quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

Tướng Pháp (bên trái) và Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu ký Hiệp định Geneve tháng 7/1954 – Ảnh tư liệu

Đại tá. PGS.TS Trần Ngọc Long, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam nhận định, Hội nghị Geneve và Hiệp định Geneve đã cho Việt Nam nhiều kinh nghiệm trên trường đàm phán; đồng thời trang bị cho quân và dân Việt Nam những gì cần thiết nhất để giành được chiến thắng vẻ vang trước chặng đường đầy chông gai, đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của Đế quốc Mỹ.

Đồng quan điểm, Đại tá. PGS. TS. Nguyễn Xuân Tú, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự Học viện Chính trị-Bộ Quốc phòng đánh giá, Hiệp định Geneve được ký kết là biểu hiện cho sự thành công của đường lối cách mạng, đường lối chiến tranh nhân dân “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh” do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng, lãnh đạo. Trong đó, đã thực hiện sáng tạo đường lối đối ngoại đúng đắn “thêm bạn, bớt thù” “biết thắng từng bước” của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính sức mạnh toàn dân, toàn diện trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng đưa đến ký kết Hiệp định Geneve mà tướng Navarre Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương trong những năm 1953-1954 đã thừa nhận: “Quân viễn chinh Pháp không những phải chống chọi với một đội quân chính quy mà còn phải đương đầu với cả một dân tộc”.

Hiệp định Geneve được ký kết là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử ngoại giao Việt Nam khi lần đầu tiên bước lên vũ đài đàm phán đa phương với sự tham gia của các cường quốc, để bàn về các vấn đề liên quan đến quyền cơ bản của chính dân tộc mình trong bối cảnh tình hình thế giới và quan hệ quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các nước lớn tham gia hội nghị đều theo đuổi những mục tiêu, lợi ích khác nhau… Việc ký kết giúp Việt Nam giành được thắng lợi, mang lại những quyền lợi to lớn và chính đáng cho dân tộc. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Hội nghị Geneve đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to…”. Ở vào thời điểm này, chính thành quả ấy trên mặt trận ngoại giao đã đem lại thế và lực mới cho nước ta trên trường quốc tế.

Bên cạnh đó, việc ký kết Hiệp định Geneve-kết quả của quá trình đàm phán tại Hội nghị Geneve cũng đem lại những kinh nghiệm lịch sử quý giá cho cách mạng Việt Nam, nhất là quá trình đấu tranh ngoại giao ở Hội nghị Paris sau này (13/5/1968-27/1/1973). “Chúng ta có kinh nghiệm hơn, chỉ đàm phán trực tiếp với Mỹ, không thông qua bất cứ nước trung gian nào; thực hiện kết hợp giữa đấu tranh quân sự, chính sự với đấu tranh ngoại giao, tạo cục diện “vừa đánh, vừa đàm”, Đại tá. PGS. TS. Nguyễn Xuân Tú cho hay.

Nhất quán chính sách quốc phòng “4 không”

70 năm trôi qua, đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Geveve là cuốn cẩm nang quý báu về trường phái đối ngoại và ngoại giao Việt Nam với nhiều bài học còn nguyên giá trị về nguyên tắc, phương pháp và nghệ thuật ngoại giao, mang đậm bản sắc ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, Hiệp định Geneve cũng là bài học, kinh nghiệm quý báu cho hoạt động đối ngoại quốc phòng, an ninh trong tình hình hiện nay.

Trong tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó đoán định như hiện nay, Thượng tướng, PGS.TS. Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng cho rằng, việc nghiên cứu và vận dụng sáng tạo các bài học, kinh nghiệm quý báu của Hội nghị Geneve về nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; kết hợp chặt chẽ giữa chính trị, quân sự và ngoại giao; phát huy nội lực, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước để làm cơ sở vững chắc cho hoạt động ngoại giao vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn.

“Đây cũng là cơ sở quan trọng để phát triển đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đối ngoại quốc phòng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới”, Thượng tướng, PGS, TS. Hoàng Xuân Chiến nhấn mạnh.

Theo Đại tá. PGS.TS. Nguyễn Xuân Tú, trên cơ sở kiên định đường lối đối ngoại của Đảng, đối ngoại quốc phòng và an ninh hiện nay phải tiếp tục kế thừa, phát huy giá trị của Hiệp định Geneve và vận dụng kinh nghiệm đấu tranh ngoại giao từ Hội nghị này nhằm nâng cao hiệu quả đối ngoại quốc phòng và an ninh trong tình hình mới.

Theo đó, hoạt động đối ngoại quốc phòng và an ninh phải không ngừng được đẩy mạnh theo hướng “thêm bạn, bớt thù”. Triển khai phát triển sâu, rộng cả về phạm vi và mức độ hợp tác với các quốc gia, các tổ chức, định chế quốc tế, góp phần từng bước đưa quốc phòng và an ninh Việt Nam hội nhập thế giới. Tích cực đổi mới nội dung, hình thức quan hệ, hợp tác quốc phòng và an ninh nhằm mở rộng trên nhiều lĩnh vực, với nhiều đối tác, trong đó có những nội dung mang tính đột phá, đóng góp hiệu quả vào phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, nâng cao uy tín, vị thế của đất nước, quân đội, công an ở khu vực và trên thế giới.

Đại tá. PGS.TS. Nguyễn Xuân Tú cho rằng, đối ngoại quốc phòng và an ninh hiện nay không chỉ tăng cường mặt hợp tác, mà phải chú trọng cả mặt đấu tranh và kết hợp chặt chẽ giữa hợp tác và đấu tranh trên các mặt, lĩnh vực. Với các tranh chấp, mâu thuẫn, cần khôn khéo đấu tranh, xác định rõ ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống và các nước khác; đưa đối ngoại quốc phòng và an ninh vào chiều sâu, có hiệu quả thiết thực.

Với riêng đối ngoại quốc phòng, cần thực hiện nhất quán chính sách quốc phòng “4 không”. Tức là, không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Bên cạnh đó, cần tích cực, chủ động thực hiện cam kết theo những cơ chế hợp tác khu vực và thế giới về tham gia phòng, chống các nguy cơ an ninh phi truyền thống và giữ gìn hoà bình, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; tham gia hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc; phối hợp cứu hộ, cứu nạn, thực hiện tuần tra chung trên biên giới đất liền và trên biển với một số nước… Quá trình đó, phải tiếp tục hướng vào thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 806-NQ/ QUTW, ngày 31/12/2013 của Quân uỷ Trung ương “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”.

Đối với công tác đối ngoại an ninh, cần tiếp tục thực hiện chiến lược an ninh đối ngoại và bước đi trong quan hệ với các cơ quan thực thi pháp luật các nước, các tổ chức quốc tế, xây dựng môi trường hoà bình để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước; chủ động tham gia các diễn đàn hợp tác quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm; xây dựng và thực hiện tốt các cơ chế đối thoại an ninh; nắm bắt thời cơ, lựa chọn mức độ, cấp độ tham gia và khởi xướng các liên kết khu vực, quốc tế phù hợp với lợi ích của Việt Nam.

Bảy thập kỷ đã trôi qua nhưng ý nghĩa lịch sử và những bài học kinh nghiệm từ Hiệp định Geneve vẫn còn nguyên giá trị. “Trong tình hình mới, chúng ta cần tiếp tục kế thừa, phát huy những giá trị của Hiệp định Geneve trong hoạt động đối ngoại về quốc phòng và an ninh, góp phần giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, Đại tá. PGS.TS. Nguyễn Xuân Tú nhấn mạnh.

Thùy Chi // https://baochinhphu.vn

Views: 1490

The post Hiệp định Geneve: Bài học quý cho hoạt động đối ngoại quốc phòng, an ninh trong tình hình mới appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Hiệp định Geneve: Việt Nam mềm dẻo, sáng suốt và kiên định trong đàm phán https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/viet-nam-mem-deo-sang-suot.html Fri, 21 Jun 2024 02:33:12 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=27859 Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam HIỆP ĐỊNH

The post Hiệp định Geneve: Việt Nam mềm dẻo, sáng suốt và kiên định trong đàm phán appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam

HIỆP ĐỊNH GENEVE: VIỆT NAM MỀM DẺO, SÁNG SUỐT VÀ KIÊN ĐỊNH TRONG ĐÀM PHÁN

Tại Hội nghị Geneve, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã kiên định với lập trường: “Đi tới một giải pháp hoàn chỉnh là đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương đi đôi với giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, Lào và Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước Đông Dương”.

Hội nghị Geneve bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương – Ảnh tư liệu Bộ Ngoại giao

Nhân tố quyết định đưa phái đoàn của Việt Nam đến bàn Hội nghị Geneve

Thượng tướng, PGS.TS. Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng cho biết, từ giữa năm 1953, khi Hiệp định đình chiến tại bán đảo Triều Tiên được ký kết, lúc này xu thế hòa hoãn trên thế giới phát triển mạnh mẽ, các nước lớn muốn giải quyết các xung đột và chiến tranh bằng thương lượng. Ngày 18/2/1954, tại Berlin, Hội nghị ngoại trưởng 4 nước Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp đã thống nhất triệu tập một hội nghị quốc tế ở Geneve (Thụy Sĩ) để giải quyết vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Ngày 26/4/1954, Hội nghị Geneve bắt đầu họp. Cùng thời gian này, ở lòng chảo Điện Biên Phủ (Điện Biên, Việt Nam), quân viễn chinh Pháp đang ở tình thế hết sức khốn đốn trước sức tiến công mạnh mẽ của các đơn vị quân đội nhân dân Việt Nam. Sau khi các cứ điểm Him Lam, Độc Lập bị tiêu diệt, quân viễn chinh Pháp ở Bản Kéo đã buộc phải đầu hàng. Đồng thời, hàng loạt cứ điểm ở khu phía đông Mường Thanh bị tiêu diệt, quân viễn chinh Pháp lâm vào thế bị động, lúng túng.

Tuy nhiên, do chiến sự ở Điện Biên Phủ chưa ngã ngũ nên quân Pháp vẫn nuôi hy vọng giành được một thắng lợi về quân sự, tạo ưu thế trên bàn đàm phán để kết thúc chiến tranh tại Việt Nam trong danh dự.

Và chỉ đến đầu tháng 5/1954, khi tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của quân viễn chinh Pháp dần dần bị quân đội nhân dân Việt Nam bao vây, bóp nghẹt, không thể cứu vãn nổi thì thực dân Pháp và các nước đồng minh buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (DCCH).

Chiều ngày 7/5/1954, Bộ Chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ chính thức đầu hàng. Chiến dịch Điện Biên Phủ của quân và dân Việt Nam toàn thắng, tạo nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ kéo dài 9 năm của chúng ta, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kết thúc thắng lợi.

Có thể khẳng định, thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ với lực lượng nòng cốt là quân đội nhân dân Việt Nam chính là nhân tố quyết định đưa phái đoàn của Chính phủ Việt Nam DCCH đến bàn Hội nghị, buộc phía Pháp phải trực tiếp đàm phán với đại diện chân chính của nhân dân Việt Nam, phá âm mưu hợp thức hoá chính quyền bù nhìn Bảo Đại do Pháp dựng lên, đồng thời tạo ưu thế cho cuộc đấu tranh của phái đoàn ta trên bàn đàm phán.

Như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn”. Chiến thắng Điện Biên Phủ chính là cái chiêng rất to phát ra tiếng vang lớn ngân vang toàn cầu, dội mạnh vào Hội nghị Geneve, đập tan hoàn toàn dã tâm xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp thô bạo của đế quốc Mỹ, buộc họ phải ngồi vào bàn đàm phán với Chính phủ Việt Nam DCCH.

Nói cách khác, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã làm thay đổi cục diện chiến tranh, là nhân tố quyết định thắng lợi của Hội nghị Geneve, đồng thời tạo thế để ta đấu tranh cho một giải pháp toàn diện về mặt chính trị và quân sự cho vấn đề Việt Nam trên bàn đàm phán.

Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng (áo khoác trắng, đứng giữa ảnh)-Trưởng đoàn đàm phán của Việt Nam DCCH tại Hội nghị Geneve – Ảnh tư liệu

Mềm dẻo, sáng suốt và kiên định trong đàm phán

Ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 thì hôm sau (8/5/1954), Hội nghị Geneve bàn về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương khai mạc.

Dự Hội nghị có các đoàn đại biểu của 9 bên: Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam DCCH, Quốc gia Việt Nam (chính quyền Bảo Đại), Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia.

Trong đó, 5 đoàn nước lớn: Anh (do Thủ tướng Anthony Eden dẫn đầu), Mỹ (Trưởng đoàn: Tướng Walter Bedell Smith, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao); Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (Trưởng đoàn: Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chu Ân Lai); Liên Xô (Trưởng đoàn: Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Vyacheslav Molotov); Pháp (Trưởng đoàn là các Thủ tướng Georges Bidault, Pierre Mendes-France).

4 đoàn còn lại gồm: Việt Nam DCCH do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn; chính quyền Bảo Đại do Nguyễn Quốc Định dẫn đầu; Vương quốc Lào do Phoui Sananikone dẫn đầu và Vương quốc Campuchia do Tep Phan dẫn đầu.

Khi tham dự Hội nghị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng thay mặt Chính phủ Việt Nam DCCH đã kiên định với lập trường: “Đi tới một giải pháp hoàn chỉnh là đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương đi đôi với giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, Lào và Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước Đông Dương”.

Theo ông Nguyễn Minh Tâm, Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, ngay từ ngày Hội nghị bắt đầu, đoàn Việt Nam đã mềm dẻo, chủ động triển khai nhiều hoạt động ngoại giao và vận động quốc tế. Cụ thể, chúng ta đã kiên định trước mọi thử thách, chủ trương nhưng linh hoạt, khôn khéo trong sách lược.

Song song với đấu tranh trên bàn đàm phán, đoàn ta đã tích cực làm việc, xử lý mềm dẻo với các đoàn Liên Xô, Trung Quốc và Pháp, đã họp báo, gặp gỡ với hàng trăm đoàn thể nhân dân và chính giới Pháp để bày tỏ thiện chí và quyết tâm của ta, tố cáo hành động hiếu chiến và âm mưu phá hoại của các lực lượng thù địch. Các hoạt động này đã góp phần làm cho dư luận Pháp và quốc tế ủng hộ lập trường của Việt Nam, buộc Chính phủ Pháp phải chấp nhận phương án về một giải pháp toàn bộ đối với Việt Nam và Đông Dương.

Hội nghị Geneve về Đông Dương chia làm 2 giai đoạn chính.

Giai đoạn 1 (từ ngày 8/5/1954 – 23/6/1954): Đây là giai đoạn các bên trình bày lập trường của mình về cách giải quyết vấn đề Việt Nam và Đông Dương.

Trên thực tế, lập trường giữa các đoàn đại biểu tham dự Hội nghị đã có một khoảng cách khá lớn. Các cuộc đàm phán tiến triển rất chậm chạp. 9 đoàn đại biểu đưa ra đề xuất và sau đó tiến hành thảo luận chung. Tuy nhiên, sự nhân nhượng lẫn nhau chỉ xuất hiện trong các cuộc thảo luận riêng. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự “xa cách” này là khác biệt về hệ tư tưởng, đặc biệt là giữa đại biểu Mỹ và Trung Quốc. Trưởng đoàn Liên Xô Molotov và trưởng đoàn Anh Anthony Eden đã phải làm nhiệm vụ của “trung gian” và thông tín viên cho hai phía.

Về thời điểm đàm phán, Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương trích dẫn báo cáo ngày 1/5/1954 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quán triệt: “Phải tranh thủ làm cho Hội nghị Geneve bắt đầu để đi đến các cuộc gặp khác”.

Đáng chú ý trong giai đoạn này là đoàn đại biểu Pháp và Trung Quốc đã vài lần đàm phán trực tiếp với nhau. Cuộc đàm phán có tính chất quyết định diễn ra vào ngày 17 và 23/6/1954, trong đó hai bên thoả thuận một giải pháp khung cho vấn đề Đông Dương là giải quyết vấn đề quân sự trước, tách rời giải pháp chính trị tại 3 nước Đông Dương.

Về phía chúng ta, một mặt, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đại diện cho đoàn đại biểu Việt Nam DCCH kiên quyết đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở các bên tham gia phải công nhận độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia; làm cho nhân dân Pháp thấy Chính phủ Pháp của Thủ tướng Laniel lúc bấy giờ hiểu là cần phải thay đổi thì Hội nghị Geneve mới thu được kết quả.

Mặt khác, Trưởng đoàn Việt Nam Phạm Văn Đồng cũng đã triệt để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng rãi cả trong và ngoài Hội nghị, nhất là tranh thủ sự chia sẻ của Trưởng đoàn Liên Xô và Trưởng đoàn Trung Quốc là kịch liệt lên án thái độ hiếu chiến của đoàn Pháp và Mỹ.

Bên cạnh đó, trong Hội nghị, vấn đề khó khăn nhất là giới tuyến phân vùng và thời hạn tuyển cử ở Việt Nam. Về vấn đề này, chấp hành chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Phạm Văn Đồng đã kiên trì đề xuất lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến tạm thời và tiến hành tổng tuyển cử sớm. Tuy nhiên phía Pháp không đồng ý và vẫn đề xuất lấy vĩ tuyến 18 làm giới tuyến. Cuối cùng, với sự khéo léo và cương quyết, tại cuộc họp đêm ngày 20/7/1954, đồng chí Phạm Văn Đồng và 4 trưởng đoàn Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc vào phút chót đã thỏa thuận được là lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến phân vùng giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, đồng thời cũng ấn định thời hạn tổng tuyển cử là 2 năm.

Đặc biệt, thay mặt đoàn Việt Nam DCCH, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã sáng suốt, kiên định trình bày lập trường 8 điểm của Việt Nam tại Hội nghị. Đây là những quan điểm có ảnh hưởng rất lớn đến nhân dân các nước thuộc địa và các nước thực dân, nhất là đối với nhân dân và Chính phủ Pháp.

Đó là: 1- Pháp công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia; 2- Ký một hiệp định về việc rút quân đội nước ngoài ra khỏi 3 nước trong thời hạn do các bên tham chiến ấn định. Trước khi rút quân, đạt thoả thuận về nơi đóng quân của lực lượng Pháp hay Việt Nam trong một số khu vưc hạn chế; 3- Tổ chức tổng tuyển cử tự do trong 3 nước nhằm thành lập Chính phủ duy nhất cho mỗi nước; 4- Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố ý định xem xét việc tự nguyện gia nhập Liên hiệp Pháp và những điều kiện của việc gia nhập đó; 5- Ba nước thừa nhận các quyền lợi kinh tế, văn hoá của Pháp tại mỗi nước. Sau khi Chính phủ duy nhất được thành lập, các quan hệ kinh tế và văn hoá được giải quyết theo đúng các nguyên tắc bình đẳng và củng cố; 6- Hai bên cam kết không truy tố những người hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh; 7- Trao đổi tù binh; 8- Các biện pháp nói trên sẽ được thực hiện sau khi đình chỉ chiến sự.

Những đề nghị hợp tình, hợp lý do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đưa ra đã được dư luận tiến bộ ở chính nước Pháp và trên thế giới đồng tình ủng hộ.

Giai đoạn 2 (từ ngày 24/6/1954 – 20/7/1954): Trưởng đoàn Pháp và Trưởng đoàn Việt Nam DCCH đã đàm phán trực tiếp để giải quyết các vấn đề cụ thể. Đoàn đại biểu Việt Nam DCCH kiên trì đấu tranh cho mấy vấn đề cơ bản bao gồm: Quyền tham gia Hội nghị của các đại biểu Chính phủ kháng chiến Lào và Chính phủ kháng chiến Campuchia; chọn vĩ tuyến để khẳng định giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam và thời hạn tổ chức tổng tuyển cử tự do thống nhất nước ta. Hai vấn đề chủ chốt phía sau mãi đến gần lúc Hội nghị kết thúc mới được giải quyết.

Như vậy, sau 75 ngày thương lượng, đám phán khéo léo, cương quyết nhưng hết sức kiên định, sáng suốt, qua 31 phiên họp (8 phiên họp rộng và 23 phiên họp hẹp) cùng các hoạt động tiếp xúc ngoại giao dồn dập đằng sau các hoạt động công khai, ngày 20/7/1954, Hiệp định Geneve về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia được ký kết.

Theo Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Nguyễn Minh Tâm, mỗi lần nhân nhượng, thỏa hiệp, Đoàn ta đều cân nhắc kỹ, thực hiện phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, luôn giữ đúng mục tiêu”.

Ngày 21/7, Hội nghị Geneva kết thúc. Hội nghị đã thông qua Tuyên bố chung bao gồm những nội dung quan trọng như đình chỉ chiến sự, lập lại, duy trì và củng cố hòa bình; tổng tuyển cử thống nhất đất nước; và các vấn đề thi hành hiệp định cho toàn bộ Đông Dương. Sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta bước sang một giai đoạn mới.

Trong “Lời kêu gọi sau khi Hội nghị Geneve thành công” ngày 22/7/1954 của mình, Hồ Chủ tịch đã viết: “Hội nghị Geneve đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to”. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, các nước lớn đã phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam gồm độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Chính phủ Pháp phải rút quân khỏi Việt Nam. Các văn kiện Hội nghị cũng nêu rõ giới tuyến chia cắt 2 miền Việt Nam là tạm thời và sau 2 năm thì 2 miền tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.

Chia sẻ tại Lễ kỷ niệm 70 năm ngày ký Hiệp định Geneve về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (21/7/1954-21/7/2024) diễn ra sáng nay 25/4, Thiếu tướng Phạm Sơn Dương (con trai cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng) cho biết ông may mắn được sống cùng ba của ông là cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bác Hồ trong Phủ Chủ tịch, nên ông được kể cho nghe những câu chuyện về Bác Hồ kính yêu, trong đó có câu chuyện về bài học ngoại giao tại Hội nghị Geneve.

“Ba nói với tôi, Bác Hồ là người chín chắn, giàu kinh nghiệm, Bác đã dự đoán, Việt Nam tham dự Hội nghị Geneve sẽ gặp những áp lực rất lớn, mặc dù chiến thắng Điện Biên Phủ và sự chuyển hóa trong Chính phủ, Quốc hội Pháp là cơ hội thuận lợi cho ta nhưng khó khăn lớn nhất là sự can thiệp của các nước lớn vào Hội nghị”, Thiếu tướng Dương nói.

Nhắc lại chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là vừa đánh vừa đàm phán để kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, Thiếu tướng Dương đúc kết Hiệp định Geneve là một giải pháp đồng bộ về chính trị và quân sự để thực hiện mục tiêu đó.

“Bác căn dặn ba của tôi, trong đàm phán phải kiên quyết bảo vệ lợi ích của quốc gia, dân tộc, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược và bước đi để đạt được mục đích là buộc Pháp phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt nam, Lào và Campuchia”, con trai cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng kể lại.

Từ thắng lợi ở Hội nghị Geneve, dân tộc ta đã đi qua nhiều chặng đường lịch sử: 21 năm kháng chiến trường kỳ để đất nước sạch bóng quân xâm lược, giang sơn thu về một mối; 10 năm đấu tranh phá bao vây cấm vận; và gần 40 năm đổi mới, đưa đất nước vững bước trên con đường phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Giang Oanh // https://baochinhphu.vn

Views: 746

The post Hiệp định Geneve: Việt Nam mềm dẻo, sáng suốt và kiên định trong đàm phán appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Những nội dung chính và ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Giơnevơ https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/y-nghia-cua-hiep-dinh-gionevo.html Fri, 21 Jun 2024 01:51:51 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=27852 Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam NHỮNG NỘI

The post Những nội dung chính và ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Giơnevơ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam

NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ

Trích đăng Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam do Ban Tuyên giáo Trung ương biên soạn. 

Khai mạc ngày 8/5/1954, Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương đã trải qua 75 ngày thương lượng căng thẳng với 31 phiên họp. Ảnh: Tư liệu TTXVN.

DIỄN BIẾN VÀ NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA HIỆP ĐỊNH

  1. Diễn biến chính của Hội nghị Giơnevơ

Thành phần tham dự Hội nghị gồm 9 bên: Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc gia Việt Nam, Vương Quốc Lào và Vương Quốc Campuchia. Đại diện lực lượng kháng chiến Pathet Lào và Khmer Itsarak tuy đã có mặt ở Giơnevơ nhưng không được các đoàn phương Tây chấp nhận cho tham dự Hội nghị.

Hội nghị diễn ra qua 3 giai đoạn:

* Giai đoạn 1 (từ 08/5/1954 – 19/6/1954)

Ngoài việc trao đổi chương trình nghị sự, các Đoàn trình bày lập trường của mình về giải pháp cho vấn đề Việt Nam và Đông Dương.

– Đoàn Pháp do Ngoại trưởng Bidault làm trưởng đoàn, phát biểu chỉ giải quyết vấn đề quân sự, không đề cập vấn đề chính trị và tách vấn đề Lào, Campuchia ra khỏi vấn đề Việt Nam. Phát biểu này được Mỹ ủng hộ.

– Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn yêu cầu phải có sự tham dự của đại diện Chính phủ kháng chiến Lào và Campuchia. Ngày 10/5/1954, Trưởng đoàn Việt Nam phát biểu, đưa ra lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với nội dung chủ yếu là: yêu cầu đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương đi đôi với một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, vấn đề Lào và vấn đề Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước.

– Trung Quốc, Liên Xô ủng hộ lập trường của Việt Nam. Trưởng đoàn Trung Quốc Chu Ân Lai đưa ra hai điều kiện để lập lại hòa bình ở Đông Dương: (1) Pháp chấm dứt chiến tranh; (2) Mỹ chấm dứt can thiệp vào Đông Dương. Trưởng đoàn Liên Xô – Bộ trưởng ngoại giao Molotov đề nghị lập Ủy ban giám sát quốc tế gồm các nước trung lập. Tại phiên họp lần thứ 4, Trưởng đoàn Liên Xô đề nghị thảo luận về phương án của Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sau 4 phiên họp rộng, Chủ tịch Hội nghị – Ngoại trưởng Anh Eden yêu cầu họp hẹp. Trưởng đoàn Liên Xô đề nghị vấn đề quân sự, chính trị và vấn đề ba nước sẽ bàn song song. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Liên Xô, Trung Quốc đồng ý. Anh và Pháp tán thành, Mỹ đành phải chấp nhận.

– Ngày 25/5/1954, trong phiên họp hẹp, Trưởng đoàn Việt Nam Phạm Văn Đồng đưa ra 2 nguyên tắc cho vấn đề đình chiến: (1) Ngừng bắn hoàn toàn trên toàn cõi Đông Dương, (2) Điều chỉnh vùng trong mỗi nước, trong từng chiến trường trên cơ sở đất đổi đất để mỗi bên có những vùng hoàn chỉnh tương đối rộng lớn thuận lợi cho quản lý hành chính và hoạt động kinh tế. Đại diện các bộ tư lệnh có liên quan nghiên cứu tại chỗ những biện pháp ngừng bắn để chuyển tới Hội nghị xem xét và thông qua.

– Ngày 27/5/1954, đoàn Pháp đồng ý lấy đề nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm cơ sở thảo luận, đề nghị đại diện của hai bên gặp nhau ở Giơnevơ để bàn việc chia ranh giới khu vực tập trung quân ở Đông Dương. Cùng ngày, đoàn Trung Quốc đưa ra 6 điểm về vấn đề quân sự như: ngừng bắn hoàn toàn và cùng một lúc ở ba nước Đông Dương; thành lập Ủy ban kiểm soát quốc tế gồm các nước trung lập nhưng chưa đề cập tới giải pháp về mặt chính trị.

– Ngày 29/5/1954, sau 4 phiên họp toàn thể và 8 phiên họp cấp trưởng đoàn, Hội nghị Giơnevơ ra quyết định: (1) Ngừng bắn toàn diện và đồng thời; (2) Đại diện hai bên gặp nhau ở Giơnevơ để bàn về bố trí lực lượng theo thỏa thuận đình chiến, bắt đầu bằng việc phân vùng tập kết quân đội ở Việt Nam.

Nhìn chung, do lập trường giữa các đoàn có một khoảng cách khá lớn, chủ yếu là do lập trường hiếu chiến của các nước Phương Tây tham gia Hội nghị, nên các cuộc đàm phán tiến triển rất chậm.

Ngày 12/6/1954, nội các Thủ tướng Laniel do phái chủ chiến chi phối bị Quốc hội Pháp đánh đổ. Ngày 19/6/1954, Mendès France lên cầm quyền, hứa với Quốc hội Pháp trong vòng một tháng sẽ giải quyết xong vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Đây là sự kiện quan trọng góp phần phá vỡ bế tắc, thúc đẩy đàm phán tiến triển.

* Giai đoạn 2 (từ 20/6/1954 – 10/7/1954)

Trong giai đoạn này, hầu hết các Trưởng đoàn về nước báo cáo, chỉ có Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở lại. Các Quyền trưởng đoàn tổ chức các cuộc họp hẹp và họp Tiểu ban quân sự Việt – Pháp bàn vấn đề tập kết, chuyển quân, thả tù binh và việc đi lại giữa hai miền. Vấn đề phân định vĩ tuyến tại Việt Nam trở thành nội dung đàm phán chính với các hoạt động gặp gỡ, trao đổi quan điểm của các bên. Nhìn chung, các cuộc họp hẹp ở Giơnevơ trong giai đoạn này không có tiến triển gì đáng kể.

* Giai đoạn 3 (từ ngày 11-21/7/1954)

Trong 10 ngày cuối của Hội nghị đã diễn ra nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi tay đôi, tay ba hoặc nhiều bên giữa các Trưởng đoàn. Các phiên họp chủ yếu đàm phán, thỏa thuận về phân chia vĩ tuyến làm ranh giới tạm thời; thông qua các văn kiện, kể cả các điều khoản thi hành Hiệp định. Cuối cùng là phiên họp toàn thể bế mạc Hội nghị.

– Đàm phán về phân chia vĩ tuyến rất căng thẳng. Pháp khăng khăng vĩ tuyến 18, Việt Nam kiên quyết vĩ tuyến 16. Phải đến phiên họp chiều tối ngày 20/7/1954, các bên mới đi đến thỏa thuận lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Thời hạn 2 năm tổng tuyển cử cũng như các hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam, Lào và Campuchia và các vấn đề khác đều là sự giằng co giữa các bên.

– Ngày 21/7/1954, Hội nghị Giơnevơ về hòa bình ở Việt Nam, Lào, Campuchia kết thúc.

– Các văn bản được ký kết tại Hội nghị, gồm:

+ Ba Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia

+ Một bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị.

+ Hai bản tuyên bố riêng của đoàn Mỹ và đoàn Pháp ngày 21/7/1954

+ Các công hàm trao đổi giữa Việt Nam và Pháp.

  1. Những nội dung chính của Hiệp định Giơnevơ
Nhân dân miền Bắc đón tiếp cán bộ, bộ đội và nhân dân miền Nam tập kết ra Bắc tại bến Sầm Sơn (Thanh Hóa), theo quy định tại Hiệp định Geneva. Ảnh: Tư liệu TTXVN.

Trải qua 75 ngày đêm đàm phán với 31 phiên họp, trong đó có các phiên họp toàn thể, phiên họp cấp trưởng đoàn cùng nhiều cuộc tiếp xúc song phương và đa phương, Hiệp định Giơnevơ đã được ký kết với các nội dung:

– Thỏa thuận chung cho ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia:

+ Công nhận và tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước.

+ Đình chỉ chiến sự trên toàn cõi Đông Dương.

+ Pháp rút quân khỏi lãnh thổ ba nước. Quân tình nguyện Việt Nam rút khỏi Lào và Campuchia.

+ Không có căn cứ nước ngoài và không liên minh quân sự với nước ngoài.

+ Tổng tuyển cử ở mỗi nước.

+ Không trả thù những người hợp tác với đối phương.

+ Trao trả tù binh và người bị giam giữ.

+ Thành lập Ủy ban liên hợp, Ủy ban kiểm soát và giám sát quốc tế.

– Đối với riêng Việt Nam:

+ Những điều khoản về đình chỉ chiến sự và lập lại hòa bình: ngừng bắn, tập kết, chuyển quân được hai bên thực hiện trong thời hạn 300 ngày; chuyển giao khu vực, trao trả tù binh và thường dân bị giam giữ, đổi vùng, vấn đề mồ mả quân nhân hai bên tham chiến.

+ Những điều khoản về duy trì và củng cố hòa bình ở Việt Nam: Lập giới tuyến quân sự tạm thời ở vĩ tuyến 17 và khu phi quân sự (sông Bến Hải); không coi vĩ tuyến 17 là ranh giới chính trị hay lãnh thổ; cấm tăng viện nhân viên quân sự, bộ đội, vũ khí và dụng cụ chiến tranh khác vào Việt Nam; cấm xây dựng căn cứ quân sự mới; cấm hai miền không được gia nhập liên minh quân sự nào; cấm sử dụng mỗi miền để phục vụ cho bất kỳ chính sách quân sự nào.

+ Những điều khoản chính trị: Vấn đề tổng tuyển cử để thống nhất đất nước; Hiệp thương hai miền vào tháng 7/1955, tổng tuyển cử vào tháng 7/1956; tự do chọn vùng sinh sống; trong khi chờ đợi không khủng bố, trả thù hay phân biệt đối xử với những người đã hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh.

+ Những điều khoản quy định việc tổ chức thi hành Hiệp định: Ủy ban kiểm soát liên hợp, Ủy ban giám sát quốc tế trung lập.

Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

  1. Ý nghĩa lịch sử

Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam cùng với Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Hiệp định Paris năm 1973 đã trở thành 3 văn kiện ngoại giao quan trọng nhất trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta.

Hiệp định Giơnevơ đánh dấu sự kết thúc một chặng đường trong quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ để đi tới độc lập tự do của dân tộc. Việc ký kết dựa trên căn cứ và phần nào phản ánh đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường, song “ký Hiệp định Giơnevơ là đúng lúc, kết thúc kháng chiến chống Pháp là phù hợp, phản ánh đúng so sánh lực lượng trên chiến trường và hoàn cảnh quốc tế lúc bấy giờ”.

Hiệp định Giơnevơ là văn bản pháp lý quốc tế quan trọng. Lần đầu tiên các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được các nước lớn công nhận tại một hội nghị đa phương. Pháp và các nước tham gia hội nghị “cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”, “tuyệt đối không can thiệp vào công việc nội trị” của Việt Nam, Lào và Campuchia. Pháp buộc phải đình chỉ chiến sự và rút hoàn toàn quân đội khỏi lãnh thổ 3 nước Đông Dương. Gần 20 năm sau, Hiệp định Paris năm 1973 đã khẳng định lại những cơ sở pháp lý quan trọng này: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam đã công nhận”.

Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đã kết thúc cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của Nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, giải phóng miền Bắc nước ta, tạo điều kiện xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương lớn, vững mạnh cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975.

Hiệp định Giơnevơ đã thể hiện bản lĩnh của nền ngoại giao Cách mạng Việt Nam. Lần đầu tiên tham gia vào một hội nghị đa phương trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, các nước lớn tham gia hội nghị đều có mục tiêu và lợi ích riêng nhưng đoàn đàm phán của ta đã phát huy chiến thắng trên chiến trường, phát huy sức mạnh chính nghĩa của dân tộc, kiên định về nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách lược để giành được những kết quả quan trọng trên bàn Hội nghị.

  1. Bài học kinh nghiệm

70 năm trôi qua, tình hình quốc tế và khu vực có nhiều thay đổi nhưng Hội nghị Giơnevơ vẫn để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho chúng ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.

Một là, trong tình hình quốc tế hết sức phức tạp, chịu sự chi phối của các nước lớn, cần nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; kiên định về nguyên tắc, linh hoạt, mềm dẻo về sách lược, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; biết giành thắng lợi từng bước trong cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Hai là, tăng cường tiềm lực, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước là nhân tố bên trong có ý nghĩa quyết định, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động đối ngoại để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Ba là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình và công lý cũng như Nhân dân thế giới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, phát huy vai trò của công tác đối ngoại, tăng cường đối thoại, sử dụng biện pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp, xung đột trong quan hệ với các nước, bảo đảm phù hợp với luật pháp quốc tế; ra sức giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định vì lợi ích của Nhân dân Việt Nam và Nhân dân thế giới.

// https://baocaovien.vn

Views: 2237

The post Những nội dung chính và ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Giơnevơ appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>