giải phóng dân tộc Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/giai-phong-dan-toc Cổng Vào Tri Thức Wed, 22 Jun 2022 07:20:07 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/wp-content/uploads/2024/12/cropped-logotvbt-32x32.png giải phóng dân tộc Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/giai-phong-dan-toc 32 32 Những dấu mốc lịch sử trên hành trình tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/nhung-dau-moc-lich-su-tren-hanh-trinh-tim-duong-cuu-nuoc-giai-phong-dan-toc-cua-nguyen-ai-quoc.html Wed, 22 Jun 2022 07:20:07 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=15808 (HCM.VN) – Kỷ niệm 111 năm (5-6-1911 – 5-6-2022), Ngày lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đi

The post Những dấu mốc lịch sử trên hành trình tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
(HCM.VN) – Kỷ niệm 111 năm (5-6-1911 – 5-6-2022), Ngày lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc; là dịp để chúng ta ôn lại những năm tháng khó khăn, gian khổ, cả dân tộc chìm đắm trong đêm dài nô lệ, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định rời bến cảng Nhà Rồng với khát vọng mãnh liệt – cứu nước, cứu nòi. Trên hành trình bôn ba nơi xứ người, với nhiều trải nghiệm quý báu, qua nhiều năm tháng, trong từng dấu ấn khác nhau, đã giúp Người tìm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, con đường cách mạng vô sản, con đường duy nhất đúng để cứu nước, giải phóng dân tộc.

1. Từ chủ nghĩa yêu nước, đến với chủ nghĩa cộng sản, tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam (1911-1920)

Đầu thế kỷ XX, đất nước ta dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai, đắm chìm trong ách nô lệ, bị xoá tên trên bản đồ thế giới. Không chịu khuất phục cảnh lầm than nô lệ, hàng trăm cuộc khởi nghĩa đã diễn ra, nhưng các con đường cứu nước mang màu sắc khác nhau, phong kiến hay dân chủ tư sản của các bậc tiền bối, sĩ phu yêu nước đương thời đều thất bại, bế tắc.

Nhận thức sâu sắc về thực tại xã hội và rất đau xót trước nỗi thống khổ của dân tộc, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã sớm có ý chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào, nên quyết định xuất dương tìm đường cứu nước. Người đi sang nước Pháp, sang Phương Tây để tìm hiểu vì sao họ giàu mạnh và hiểu những gì ẩn giấu sau những từ tự do-bình đẳng-bác ái mà thực dân Pháp rêu rao ở các nước thuộc địa.

Ngày 5-6-1911, từ bến Nhà Rồng (Sài Gòn) với tên gọi Văn Ba, Người xuống làm thuê cho một hãng tàu buôn của Pháp để bắt đầu thực hiện quyết tâm và khát vọng cứu nước, cứu dân.

Từ năm 1911 đến năm 1920, Người đã đi đến nước Pháp, nước Mỹ, nước Anh và rất nhiều thuộc địa của chủ nghĩa thực dân ở châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ; hoà mình vào cuộc sống của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, vừa ra sức học tập, nâng cao vốn hiểu biết và tìm mọi cách để hoạt động cách mạng. Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp vì nhận thấy “đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi và là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Tháng 6-1919, thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Người gửi tới Hội nghị Vécxay (Pháp) bản Yêu sách của Nhân dân An Nam, gồm 8 điểm đề nghị Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, bình đẳng, dân chủ tối thiểu cho nhân dân Việt Nam. Yêu sách là tuyên bố chính trị đầu tiên của nhân dân Việt Nam trên diễn đàn quốc tế, đã thể hiện tấm lòng yêu nước thiết tha, khát vọng của Nguyễn Ái Quốc và nhân dân các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ, quyền tự quyết của các dân tộc, khơi nguồn cảm hứng cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân của nhân dân tiến bộ toàn thế giới.

Sau gần mười năm trên chặng đường đầu tiên của hành trình khát vọng giải phóng dân tộc, trên hành trình đi khắp các châu lục, khảo sát thế giới, thấu hiểu bản chất xấu xa của chủ nghĩa thực dân; nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới, nghiên cứu tình hình, điều kiện mới của thế giới sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Người đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa cộng sản, tìm thấy ánh sáng chân lý thời đại, tìm được con đường cách mạng Việt Nam – con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người một cách hoàn toàn và triệt để nhất.

Vào mùa Hè năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tiếp cận bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo (L’Humanité). Luận cương của Lênin nhấn mạnh nhiệm vụ của các Đảng Cộng sản phải giúp đỡ thật sự phong trào cách mạng của các nước thuộc địa; nhấn mạnh sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản các nước tư bản với quần chúng lao động của tất cả các dân tộc chống kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến. Tư tưởng đó đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào, làm cho Người “rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ và tin tưởng biết bao” bởi đã đem đến “con đường giải phóng chúng ta!”. Kết quả tất yếu của sự chuyển biến về tư duy, nhận thức đưa Người đến một quyết định đúng đắn là bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp (tháng 12-1920). Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa cộng sản, “từ một người yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa”.

2. Truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, sáng lập Đảng Cộng sản, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước (1921-1930)

Với khát vọng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”,  sau khi tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã ra sức kiến tạo những nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, vươn tới thực hiện bằng được khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Những năm 1921-1930 là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và những quan điểm cách mạng của mình về trong nước; bắt đầu một thời kỳ hoạt động cách mạng sôi nổi, học tập và nghiên cứu hệ thống về chủ nghĩa Mác – Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa ở ngay trên đất nước Liên Xô – quê hương của V.I.Lênin vĩ đại, ở trung tâm phong trào cộng sản quốc tế. Đây cũng là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc bổ sung và phát triển lý luận của mình về vấn đề dân tộc thuộc địa và cách mạng giải phóng dân tộc.

Nhận thức được vai trò và ảnh hưởng to lớn của Quốc tế cộng sản và Đảng Cộng sản Pháp đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia tích cực vào đời sống chính trị trong phong trào cộng sản quốc tế: Dự Đại hội lần thứ I Quốc tế Nông dân (1923), được bầu vào Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân; dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1924) và được cử làm cán bộ Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng thời là Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân; tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa (1922) – một hình thức mặt trận của các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân thống trị, liên minh với giai cấp vô sản chính quốc để phối hợp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Tại Mátxcơva, Người vào học tại Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế cộng sản – nơi trang bị lý luận và những nguyên lý đấu tranh theo quan điểm của Quốc tế cộng sản và như Người nói là nơi “đặt mối liên hệ giữa chúng tôi với các dân tộc phương Tây và trang bị cho chúng tôi – những người nô lệ, khả năng hoạt động chặt chẽ”.

Với kiến thức lý luận và thực tiễn phong phú, Người viết nhiều bài báo đăng trên các tờ báo cách mạng ở Nga, ở Pháp, như: Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí cộng sản, Thư tín Quốc tế,… tố cáo tội ác của thực dân Pháp, tình cảnh các dân tộc thuộc địa trong đó có nước ta, lên án mạnh mẽ chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa. Năm 1925, Người viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp. Những bài viết của Người đã được bí mật chuyển về nước và lưu truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân, thức tỉnh họ, đoàn kết họ trong cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập.

Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Mátxcơva – Liên Xô đến Quảng Châu – trung tâm của cách mạng Trung Quốc lúc bấy giờ, nơi đang sục sôi không khí cách mạng. Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên – một tổ chức cách mạng có khuynh hướng cộng sản; ra báo Thanh Niên để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về trong nước, đồng thời mở các lớp huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Những bài viết của Người về sau được tập hợp và xuất bản thành cuốn sách Đường Kách mệnh. Đây là cuốn sách giáo khoa lý luận chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước ta, phản ánh những quan điểm, tư tưởng, đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh; mở ra cho dân tộc ta con đường cách mạng đúng đắn để đấu tranh giải phóng khỏi ách nô lệ, giành độc lập dân tộc, tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội – độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.

Không ngừng học tập lý luận, tổng kết thực tiễn phong phú ở nhiều nước, ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước, làm chuyển hoá phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị kỹ lưỡng những tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức để đi tới thành lập một chính đảng cách mạng đủ sức đảm đương thắng lợi sự nghiệp giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam. Mùa Xuân năm 1930, tại Cửu Long (Hồng Kông, Trung Quốc), Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở trong nước, thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện do Người soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng hợp thành Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh đã vạch rõ đường lối cách mạng, con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập, tự do, hạnh phúc. Sự ra đời của Đảng đã chấm dứt nguy cơ chia rẽ trong phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam, chấm dứt thời kỳ bế tắc, khủng hoảng về đường lối cứu nước, về lực lượng lãnh đạo đã kéo dài nhiều thập kỷ, mở ra “bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam.

3. Hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, trở về nước, thực hiện khát vọng độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam (1930-1941)

Sau khi sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, từ năm 1930 đến năm 1940, Người tham gia công tác của Quốc tế cộng sản ở nước ngoài. Trong quá trình đó, Người đã bị bắt giam trong Nhà tù thực dân Anh ở Hồng Kông (1931 -1933). Dù bị giam cầm thể xác trong chốn lao tù, nhưng tâm trí Người, luôn theo dõi sát sao phong trào cách mạng trong nước, từng giờ, từng phút tìm cách trở về với cách mạng, vẫn nuôi dưỡng khát vọng “sớm trở về Tổ quốc tôi để giải phóng đồng bào”.

Sau khi trở lại Matxcơva (Liên Xô) vào tháng 6/1933, Nguyễn Ái Quốc vào học Trường Quốc tế Lênin – Trường dành cho những người cộng sản nước ngoài, nhằm giúp đỡ các Đảng Cộng sản đào tạo cán bộ cách mạng, nhất là cán bộ chủ chốt. Chính tại đây, Nguyễn Ái Quốc có điều kiện đi sâu vào những vấn đề của cách mạng vô sản, kết hợp kinh nghiệm thực tiễn của bản thân tích luỹ qua hàng chục năm hoạt động cách mạng, để suy nghĩ và tiếp tục hoàn chỉnh con đường cách mạng giải phóng và phát triển dân tộc Việt Nam. Tiếp đó, năm 1935, Người tham dự Đại hội VII Quốc tế cộng sản, tìm thấy trong nghị quyết Đại hội nhiều quan điểm mới về chiến lược, sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, đặc biệt là vấn đề phải xây dựng cho được một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống đế quốc, đòi dân chủ, cơm áo và hoà bình.

Vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước, nhất là nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới do đế quốc phát xít gây ra đang tới gần, đe doạ vận mệnh các dân tộc, sau khi Quốc tế cộng sản “đồng ý” để Người về nước công tác, Hồ Chí Minh đã sớm rời Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa (9-1938), bỏ lại bản luận án nghiên cứu sinh đang viết dở. Người đáp xe lửa, rời Mátxcơva, đi về phương Đông. Cuối năm 1939, Người đến Côn Minh – thủ phủ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), tìm bắt liên lạc với tổ chức Đảng, tìm đường về nước.

Ngày 28-1-1941, sau hành trình “Xa rời Tổ quốc đã hơn 30 năm. Đã mất bao nhiêu thời giờ và sức lực tìm liên lạc mà không được. Bao nhiêu năm thương nhớ, đợi chờ”, Người đã “bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình. Khi bước qua cái bia giới tuyến, lòng Bác vô cùng cảm động”. Từ đây, Người mở ra một chân trời mới trong việc tiếp tục hành trình hiện thực hóa khát vọng độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, dẫn tới những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.

Tháng 5-1941, Người chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 tại Pác Bó (Cao Bằng). Người cùng Trung ương Đảng quyết định “thay đổi chiến lược” cách mạng giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; sáng lập Mặt trận Việt Minh để tổ chức vận động, tập hợp lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong một Mặt trận dân tộc thống nhất; chủ trương tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng; chuẩn bị lực lượng mọi mặt chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng tháng Tám năm 1945, thể hiện quyết tâm của Người: “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho kỳ được độc lập dân tộc”, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, toàn dân tộc đã nhất tề đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi vĩ đại đó là thắng lợi của hành trình khát vọng thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh; đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc – “kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, mở ra một thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ nhất, vinh quang nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

*********************************

111 năm gắn liền với sự kiện lịch sử Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước đã trôi qua, nhưng, những ý nghĩa vĩ đại của sự kiện đó vẫn vẹn nguyên giá trị trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Hơn 100 năm, Người tìm đường đi cho dân tộc ta đi, hơn 90 năm, Người sáng lập Đảng, lãnh đạo nhân dân ta giành được nhiều thắng lợi to lớn, xây dựng đất nước phồn vinh, ấm no, hạnh phúc. Những mốc son trọng đại ấy luôn nhắc nhở Đảng ta, nhân dân ta gìn giữ, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – nền tảng tư tưởng lý luận soi đường, dẫn dắt dân tộc từ đêm dài nô lệ bước tới đài vinh quang như ngày nay.

(Sưu tầm)

Views: 1130

The post Những dấu mốc lịch sử trên hành trình tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
30 tháng 4 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/30-thang-4.html Fri, 27 May 2022 02:51:23 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=15142 30 tháng 4 / Nguyễn Viết Tá, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Trần Thiết…. – Tp.Hồ Chí Minh : Nxb.Thành phố

The post 30 tháng 4 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>

30 tháng 4 / Nguyễn Viết Tá, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Trần Thiết…. – Tp.Hồ Chí Minh : Nxb.Thành phố Hồ Chí Minh, 1985. – 309 tr. ; 19cm

Tóm tắt: Gồm những bài viết ghi lại những câu chuyện cụ thể đã diễn ra và giới thiệu thêm một số tư liệu để bạn đọc tìm hiểu rõ hơn tình chất và ý nghĩa của chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh dẫn đến thắng lợi vĩ đại: Đòn quyết định cuối cùng; Tiến vào Sài Gòn; Ngày cuối cùng của chiến tranh Sài Gòn; Trước giờ sụp đổ của chế độ Mỹ- ngụy
Ký hiệu xếp giá:  V24,3KV1.21,355(v)(09)
Kho: DVN.003708, DVN.003709
Sách hiện có tại Thư viện tỉnh Bình Thuận

Views: 0

The post 30 tháng 4 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Ảnh hưởng của ông Nguyễn Sinh Sắc đối với người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/anh-huong-cua-ong-nguyen-sinh-sac-doi-voi-nguoi-anh-hung-giai-phong-dan-toc-danh-nhan-van-hoa-ho-chi-minh.html Wed, 11 May 2022 09:05:00 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=14791 I. Đặt vấn đề: Trong mỗi con người có phần di thể của cha mẹ để lại, thế hệ con

The post Ảnh hưởng của ông Nguyễn Sinh Sắc đối với người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
I. Đặt vấn đề: Trong mỗi con người có phần di thể của cha mẹ để lại, thế hệ con nhận được gen di truyền của thế hệ cha (hoặc mẹ) cả ở hai phần: Hình hài máu mủ và trí tuệ tâm hồn; đó là phần thiêng liêng. Ngoài ra, phong độ tư tưởng của cha mẹ và sự tạo điều kiện cho họ còn có tác dụng rất lớn lao đối với sự phát triển của con cái. Các trường hợp Nguyễn Nghiễm (1708 – 1776) đối với Nguyễn Du (1765 – 1820) và bà Mari Quyri (1867 – 1934) đối với con gái, Iren Giôliô Quyri (1897 – 1950) là những ví dụ.

Ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1862 – 1929) đối với con trai của mình là Nguyễn Sinh Cung sau này là Chủ Tịch Hồ Chí Minh (1809 – 1969), ngoài tình cha con như ở gia đình khác, giữa hai người còn có quan hệ thầy trò và phần nào còn là quan hệ bè bạn (đến cuối đời mình, ông Nguyễn Sinh Sắc lại đã hoạt động dưới ánh sáng cách mạng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc hồi nhỏ là Nguyễn Sinh Cung mang lại). Mối quan hệ giữa hai người như vậy là thật phong phú, khám phá tốt về người cha là sẽ có điều kiện tìm hiểu về người con. Đó là một đề tài cần có sự khảo cứu công phu và đầy đủ. Ở báo cáo khoa học này, chủ yếu chỉ tham gia vào việc tìm hiểu về ảnh hưởng của ông Nguyễn Sinh Sắc đối với người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (thời gian từ 1890 – 1911).

II. Ảnh hưởng từ quan hệ thầy trò:

Mỗi trẻ em, khi sinh ra và lớn lên đều tiếp tục được giáo dục của gia đình. Đối với những gia đình trí thức, nhất là trong nhà có người dạy học thì trẻ còn học chữ ngày từ lúc còn nhỏ. Cậu Nguyễn Sinh Cung cũng là một trường hợp như vậy.

Ông ngoại của cậu (nhà cùng chung sân, chung vườn), cụ Hoàng Xuân Đường (thi Hương đã vào trường nhì) là một thầy đồ mở lớp dạy học ở trong nhà. Về sau, ông Nguyễn Sinh Sắc vừa tiếp tục công việc đó của nhạc phụ vừa lo học tập, thi cử. Thân mẫu của cậu, bà Hoàng Thị Loan cũng là một phụ nữ có biết chữ Hán và cũng đã góp phần dạy bảo các con. Như vậy là từ thơ bé, cậu Nguyễn Sinh Cung đã nhận được sự giáo dưỡng từ nhiều người, trước hết là ông ngoại, bố mẹ. Đó là hình thức thần giáo. Nhưng lúc 3 tuổi thì ông ngoại  mất, 10 tuổi thì mẹ qua đời, bố là người có nhiều ảnh hưởng sâu đậm nhất đối với cuộc sống và sự nghiệp của cậu.

Cũng là dạy chữ Nho nhưng cách dạy của ông có những nét khác với nhiều người. Ông chú ý đến chính của từ ngữ và vận dụng nó vào trong cuộc sống thường ngày của con người Việt Nam .

Ví như chữ : “Nhị” và chữ “Nhân\” là người hợp lại thành chữ “Nhân” chỉ lòng nhân. Như vậy, chữ “Nhân” trước hết nói đến quan hệ giữa người với người, khuyên chúng ta phải hết ăn  ở  tốt với những người xung quanh. Ông cũng không quên liên hệ đến câu tục ngữ” “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao”

Chữ “ Tín” là do chữ “Nhân” mà chữ “Ngôn” hợp thành, tức lời nói của con người. Có nghĩa rằng, mình nói ra phải được mọi người tin: Một người thu phục được lòng tin của những kẻ khác thì ở người đó lời nói đi đôi với việc làm.

Chữ “Nghĩa” có một phần là chữ “Ngã” (là ta). Vậy, làm việc nghĩa là một hành động trong đó có bản thân mình (1).

Phân tích ra từng bộ của mỗi chữ như vậy để bắt nghĩa cũng không phải là cách dạy từ ngữ thông thường của ông.

Ông thường thông qua các thành ngữ để dạy các nghĩa của từ. Ví như khi dạy về chữ “Trí”, ông bảo phải là “Trí thuỷ nhân sơn” tức là trí khôn phải như nước chảy, phải mềm, phải thấm, phải vừa biết vượt lên, vừa biết phá đường mà đi. Còn lòng “Nhân” thì phải vững như núi, không bị chuyển lay. “Trí” phải đi đôi với “Dũng” Muốn thực hiện cái “Dũng” thì phải có “Mưu”. Những trường hợp phí sức, vô công (còn có hại nữa) là do “Hữu dũng vô mưu”. Cũng ở chữ “Trí”, ông khuyên con phải “Trí viên hành phương” tức là “Trí” phải cho đầy, cho thông và việc làm thì phải cho ngay, cho chính.(2)

Ông thường đi vào những câu sách có nội dung triết lý nhân văn dưới hình thức phương ngôn, tục ngữ như “Gia bần tri hiếu tử” (Nhà nghèo mới biết con có hiếu), “Trường đồ tri mã lực” (Đường dài mới biết sức ngựa)… Để mong con vững gan, bền chí.

Cách dạy của ông là dạy lòng nhân ái, đức tín nghĩa và sức trí dũng, lấy bản thân làm chủ, nhân quân làm gốc. Tóm lại, ông chăm lo bồi đắp cho con cái, cho học trò về đạo làm người, lấy cơ sở làm nền tảng luân lý truyền thống Việt Nam làm nền tảng (3). Trong văn chương, ông không thích các loại “Chi diệp chi văn” (Thứ văn chương nói những điều trên cành, dưới lá). Tính thiết thực đúng mức ấy cũng được ông vận dụng sát hợp vào cảnh sống thanh bạch của nhà mình. Một lần ông nói với vợ và các con ở Huế: “Cái ăn chỉ cần thích khẩu và chỗ ở chỉ cần co duỗi đôi chân” (4). Ông không coi nhẹ nhiệm vụ giáo dục trong công tác giáo dưỡng kể cả khi học vấn nhận thức của con trai đã cao lên… Và khi đã vào học ở trường Pháp – Việt rồi vào học Quốc Học (1905- 1909), cậu học sinh tân học Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Sinh Cung) vẫn không bỏ phí hoàn cảnh thuận lợi của mình là tranh thủ sự dạy bảo của bố về Hán học.

Phương pháp nhận thức và vận dụng những kiến thức sách vở để truyền thụ cho con của ông Nguyễn Sinh Sắc là như vậy. Chắc chắn, với phương pháp giáo dục đó, phong độ thanh thản, tư tưởng  trong sáng của ông đã ảnh hưởng nhiều đến con trai. Sau này, Bác Hồ của chúng ta cũng dùng những khái niệm đạo đức cơ bản của nhân loại, trong đó có phần của đạo Nho. Nhưng cách thể hiện, truyền đạt của Bác, ta thấy cái cốt lõi vẫn là tư tưởng đạo đức truyền thống của dân tộc. Những khái niệm đó qua Bác, đã được Việt hoá, dân tộc hoá một cách nhuần nhuyễn, hợp với tâm thức của đồng bào. Bác có đạo đức, tâm lý cao rộng tầm cỡ một nhà Đông phương học. Các học giả phương tây nhiều lúc vẫn gọi Bác là một sĩ phu (Lettre) nhưng Bác cũng là người Việt Nam nhất, gần gũi với mọi người vì có phong cách quần chúng. Để đạt vinh hiệu do quốc tế phong tặng là một danh nhân văn hoá thế giới, trong suốt cuộc đời phong phú, vĩ đại của mình, Bác  đã tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá của cả loài người nhưng phần ảnh hưởng Bác vẫn tiếp từ buổi ban đầu, từ người cha và cũng là người thầy học thân yêu là rất quan trọng.

III. Có một phần là quan hệ bạn hữu:

Ông Nguyễn Sinh Sắc lúc lên ba tuổi thì bố mất và sau đó ba năm thì mẹ cũng qua đời và đến tuổi ba mươi bảy thì vợ tạ thế. Cuộc đời ông chịu nhiều cô đơn. Từ đó sống cảnh gà trống nuôi con, đi đâu ông cũng mang cậu Nguyễn Sinh Cung theo cùng.

 

Theo lời giới thiệu cửa Phan Bội Châu, đầu năm 1903, ông lên Võ Liệt (Thanh Chương) dạy học. Tính vốn thích giao du, ít lâu sau, ông ra Diễn Châu, ghé qua nhà ông Võ Khang Tế ở Hậu Luật, là người học rộng đã từng chiến đấu dưới cờ Cần Vương Nguyễn Xuân Ôn (1885- 1890). Rồi ông ra nhà cụ Võ Tất Đắc ở Vạn Phần, một tri huyện cáo quan về làng. Cũng theo cụ Võ Tất Đắc giới thiệu, ông lên làng Du Đồng, Đức Thọ (Hà Tĩnh), ngồi dạy học ở nhà ông Nguyễn Bá Uỷ. Từ đó, ông đến Trung Lễ quê Lê Minh và Đông Thái, quê Phan Đình Phùng cũng là những lãnh tụ Cần Vương nổi tiếng. Ông còn ra Nghi Lộc, Quỳnh Lưu và nhiều nơi khác. Có tài liệu cho biết ông cũng đã đi ra Kiến Xương (Thái Bình) thăm quê nhà lãnh tụ Cần Vương và cũng là nhà thơ Nguyễn Quang Bích. Năm 1905 ông lại đi Huế lần thứ hai và cùng con trai sống ở đó cho đến 1909 thì ông và Bình Định rồi đi mãi cho đến 1929 thì mất ở Cao Lãnh (Đồng Tháp).

Như vậy là từ năm 1895 theo bố mẹ vào sống ở Huế cho đến 1909 chia tay bố ở Huế, 14,15 năm trời cậu Nguyễn Sinh Cung được theo bố đi đến rất nhiều nơi và sống trong nhiều hoàn cảnh, qua nhiều thời cuộc khác nhau của đất nước. Ta đã biết, trong lịch sử, hồi trước công nguyên, Tư Mã Thiên (145- 86 TCN) đã được cha là Tư Mã Đàm tạo điều kiện cho đi đến rất nhiều nơi, qua Vân Nam, Tứ Xuyên cho suốt Vạn Lý Trường Thành… Thăm biết bao thắng cảnh, di tích lịch sử nổi tiếng, tiếp xúc với biết bao học giả, chính khách. Nhờ đó mà về sau Tư Mã Thiên trở thành nhà viết sử kiệt xuất của nước Trung Hoa cổ đại. Cùng thời với Nguyễn Tất Thành (tức lúc này đã là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc) Gia- Oa- Hác-lan-Nê- Ru (1890- 1966) cũng đã được bố là Mô-Ti-La- Nê- Ru dẫn cho đi đến rất nhiều nơi, nhất là năm 1927, Gia-ca- Hác-Lan đã được theo bố dự lễ kỷ niệm 10 năm cách mạng Tháng Mười ở Mát-xcơ-va. Ông Nguyễn Sinh Sắc và cậu Nguyễn Sinh Cung thì ở trong một hoàn cảnh khác, từ một nhà nho nghèo ở một nước nông nghiệp lạc hậu, là đất thuộc địa của tư bản Pháp. Sự tạo điều kiện của bố đối với con trai là rất hạn hữu. Nhưng nhìn lại hành trình của hai người thì cũng thật là đáng khâm phục. Trên những hành trình đó, giữa những chốn đất khách quê người, tình cha con cũng là tình bạn bè, nhất là đối với Nguyễn Sinh Cung là một thiếu niên sớm hiểu biết, sớm có ý chí đuổi thực dân giải phóng đồng bào.(5)

Kể từ buổi ở làng sen, được bố cho cùng tiếp chuyện với cụ Phan Bội Châu, được nghe Cụ nhắc đến hai câu thơ của Viên Mai với nghĩa: “Khuya sớm phải lo ghi sử sách, còn lập thân bằng văn chương là con đường hèn nhất” cái nội dung tư tưởng ấy theo như cụ Phan, hồi đó cậu Cung cũng đã hiểu được, cho đến khi cậu lựa chọn con đường hoạt động cứu nước sau này, qua sự dìu dắt của thân phụ, cậu thiếu niên Nguyễn Sinh Cung đã được tiếp xúc với biết bao thân sĩ, trí thức, chứng kiến biết bao diễn biến, thành bại của các cuộc vận động cứu nước  Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, Chống Thuế…) . Sau những buổi tiếp xúc, đàm đạo, lúc đêm đến chung một ngọn đèn, cha con lại trao đổi với nhau về nhận thức, ý kiến của mình về những hiện tượng đã diễn ra, có lúc mỗi người đánh giá, nhận xét một khác. Nhưng cũng như hồi còn ở quê nhà đã làm câu đối mừng một  người bạn ở Nghi Lộc: “Tích thiện phùng thiện, hữu phúc hữu kháng nhi tôn” (Làm điều lành, có phúc hay không hãy nhìn ở con cháu), ông Sắc rất tin vào lớp trẻ. Ông cũng rất coi trọng  ý kiến của con những điều như việc học hành của con, chuyện làm quan của cha, đều được đưa ra bàn bạc, suy ngẫm. Học để làm gì, thân phận của kẻ làm quan ra làm sao? Khi nói chuyện với thanh niên ở quảng trường Di Luân, ông Sắc đã bày tỏ “Quan trường thị nô lệ, trung chi nô lệ, hựu nô lệ” (Quan trường nô lệ, trong đám người nô lệ thế là càng nô lệ hơn). Câu đó ông Sắc muốn nói với cả con trai. Môi trường để giãi bày tâm sự đó phải trong quan hệ bạn bè. Từ nhận thức của thân phụ, rằng làm quan dưới chế độ thực dân phong kiến là nô lệ, đến khái niệm của Bác  sau này: Người cán bộ (trong chế độ dân chủ nhân dân) là người đầy tớ trung thành của nhân dân, là sự tiếp thu có biến đổi theo tinh thần cách mạng. Cùng ăn một mâm, nằm một chiếu hai cha con đã thấu hiểu và san sẻ tâm sự cùng nhau. Tháng 9/1909 ông Sắc tạm biệt con vào Bình Định làm tri huyện rồi con bị đuổi học, cha bị cách quan, việc xảy ra với cả hai người bởi cùng chung lý do và lòng thương dân, yêu nước. Họ đã hành động, xử sự như là những người bạn cùng chiến đấu. Ông Sắc nói giữa Sài Gòn khi anh Thành đến tìm mình: “Nước mất thì đi tìm nước chứ công chi mà phải tìm cha” Năm 1926, ông Sắc lại nhắn con trai qua đồng chí Lê Mạnh Trinh “…Nói với Quốc trung với nước tức là hiếu với cha”. Bản thân người cha khuyên con đừng bận tâm về minh, coi con như như là một người bạn chiến đấu mà mình phải hết lòng giúp đỡ, động viên, ở trong những hoàn cảnh ấy, chỉ những người như ông Nguyễn Sinh Sắc mới có được. “Trung với nước tức là hiếu với cha” phải có cách lý giải đó cũng là quan niệm về trung hiếu của Bác: “Trung với nước, Hiếu với dân”.

Thời gian 1926- 1929, tại Cao Lãnh,ông Nguyễn Sinh Sắc tham gia hoạt động, gây dựng tổ chức Việt Nam Thanh Niên cách mạng đồng chí hội, một tổ chức cách mạng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Quảng Châu. Năm 1943, đồng chí  Hồ Chí Minh viết “Ngục Trung Nhật Ký” tại nhà lao Tĩnh Tây (Trung Quốc). Tác phẩm viết bằng chữ Hán, thứ ngôn ngữ do bố dạy từ hồi còn nhỏ này là tác phẩm văn học nổi tiếng trong kho tàng văn thơ cách mạng Việt Nam. Đó là những mối quan hệ lại tuyệt đẹp mang tính thừa kế giàu sức chiến đấu, là phát huy sáng tạo vốn văn hoá nghệ thuật mà chỉ giữa ông Nguyễn Sinh Sắc và lãnh tụ  Hồ Chí Minh mới có được.

Tình cha con cũng là tình bè bạn, “Con hơn cha là nhà có phúc’, đó là điều may mắn của đất nước, của dân tộc và cũng là niềm vinh hạnh của người cha, của gia đình ông Nguyễn Sinh Sắc ở Làng sen.

Vị anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh là người của dân tộc, của nhân gian và của thời đại. Người tiếp thu truyền thống của nhân loại về đấu tranh nhằm giải phóng và vì hạnh phúc con người. Người đã tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn hoá, trước hết là truyền thống đấu tranh cách mạng và nền văn hoá của dân tộc Việt Nam vốn được chung đúc bởi những gia đình, những con người cụ thể. Điều may mắn đối với Người là ngay từ bé, Người đã được sống trong một gia đình mà mỗi con người có nét đẹp riêng. Trong đó Người cha, ông Nguyễn Sinh Sắc là người có học thức cao, có phong độ quảng bá và có tư tưởng trong sáng. Chắc chắn, ông là Người đã ảnh hưởng rõ nét đối với vị anh hùng giải phóng dân tộc, bậc danh nhân văn hoá  Hồ Chí Minh.

                                                                                                                                                  Chu Trọng Huyến

Nguồn: Hội thảo khoa học Cụ Nguyễn Sinh Sắc, diễn ra ngày 11,12/1/1990 tại Đồng Tháp.

(Sưu tầm)

Views: 5701

The post Ảnh hưởng của ông Nguyễn Sinh Sắc đối với người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>