Đảng cộng sản Việt Nam Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/dang-cong-san-viet-nam Cổng Vào Tri Thức Tue, 04 Feb 2025 00:56:32 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/wp-content/uploads/2024/12/cropped-logotvbt-32x32.png Đảng cộng sản Việt Nam Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/dang-cong-san-viet-nam 32 32 Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2025) https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/95-nam-ngay-thanh-lap-dcsvn.html Mon, 03 Feb 2025 03:11:33 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31206 Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

The post Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2025) appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2025)

KỶ NIỆM 95 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(03/02/1930 – 03/02/2025)

———————————————————

ĐẢNG TA THẬT LÀ VĨ ĐẠI

Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo đất nước, chỉ ra con đường phát triển tất yếu của Cách mạng Việt Nam. 95 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam đã tạo nên những kỳ tích trong lịch sử, trải qua kỷ nguyên đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội (1930-1975); kỷ nguyên thống nhất đất nước, đổi mới (1975-2025). Và giờ đây, đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, khởi đầu bằng sự kiện trọng đại – Đại hội XIV của Đảng. Trải qua các thời kỳ, Đảng ta luôn khẳng định “là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”.

// https://nvsk.vnanet.vn/

———————————————————

———————————————————

Giới thiệu Sách:
THƯ VIỆN TỈNH BÌNH THUẬN XIN TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU MỘT VÀI TÀI LIỆU VỀ “ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM” CÓ TẠI THƯ VIỆN
  1. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trên đường sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam
  • Tác giả: Lê, Văn Yên
  • Thông tin xuất bản: Hà Nội: Công an nhân dân, 2020
  • Ký hiệu xếp giá: 324.2597075 / NG527A
  • Mô tả vật lý: 151tr., 21cm
  • Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVV.027201 ; Phòng Mượn: MVV.038458; MVV.038459
  • Tóm tắt: Giới thiệu con đường hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh – từ người yêu nước trở thành chiến sĩ cộng sản, hoạt động và đóng góp cho phong trào cộng sản quốc tế, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và những sáng tạo trong việc thành lập Đảng ta
  1. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam
  • Tác giả: Phạm, Quốc Thành
  • Thông tin xuất bản: Hà Nội: Đại học quốc gia Hà Nội, 2014
  • Ký hiệu xếp giá: 324.2597075 / V103T
  • Mô tả vật lý: 200tr., 24cm
  • Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.013729; Phòng Mượn: MVL.015509
  • Tóm tắt: Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc cho việc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, giải phóng dân tộc: chủ động tìm đường giải phóng dân tộc Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, chuẩn bị tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng, thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất. Nhận xét về quá trình sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc.
  1. Tìm hiểu về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
  • Tác giả: Vũ, Ngọc Lương
  • Thông tin xuất bản: Hà Nội: Công an nhân dân, 2020
  • Ký hiệu xếp giá: 324.259707509 / T310H
  • Mô tả vật lý: 239tr., 27cm
  • Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.016050; Phòng Mượn: MVL.019276; MVL.019277
  • Tóm tắt: Trình bày một cách có hệ thống dưới dạng hỏi – đáp về những sự kiện và những vấn đề cơ bản, quan trọng trong quá trình phát triển lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam.
  1. 130 câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
  • Tác giả: Tô, Lâm
  • Thông tin xuất bản: Hà Nội: Chính trị Quốc gia sự thật, 2020
  • Ký hiệu xếp giá: 324.2597075 / M458T
  • Mô tả vật lý: 75tr., 15cm
  • Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVN.028985 ; Phòng Mượn: MVN.029561; MVN.029562
  • Tóm tắt: Tập hợp 130 câu nói của Chủ tích Hồ Chí Minh về vai trò, mục đích, phương châm và lực lượng làm công tác xây dựng Đảng. Nội dung của công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận; chính trị; tổ chức, bộ máy; cán bộ, Đảng viên và đạo đức
  1. Đảng Cộng sản Việt Nam – Trí tuệ, bản lĩnh, đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
  • Thông tin xuất bản: Hà Nội: Chính trị Quốc gia sự thật, 2020
  • Ký hiệu xếp giá: 324.2597075 / Đ106C
  • Mô tả vật lý: 960tr., 24cm
  • Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.016378
  • Tóm tắt: Gồm các bài viết, tham luận tập trung ôn lại những chặng đường lịch sử 90 năm qua, khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; tầm nhìn và định hướng của Đảng trong đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế
  1. Ngoại giao văn hoá Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế
  • Tác giả: Trịnh, Thanh Mai
  • Thông tin xuất bản: Hà Nội: Chính trị Quốc gia sự thật, 2019
  • Ký hiệu xếp giá: 327.597 / NG404G
  • Mô tả vật lý: 219tr., 21cm
  • Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVV.026554; Phòng Mượn: MVV.037521; MVV.037522
  • Tóm tắt: Gồm 3 chương: Ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh – Một số vấn đề lý luận; Thực trạng vận dụng ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh và những vấn đề đặt ra; Phát triển ngoại giao văn hóa Việt Nam trong quá trình họi nhập quốc tế theo di sản ngoại giao văn hóa Hồ Chí Minh
  1. Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế
  • Tác giả: Nguyễn, Tấn Vinh
  • Thông tin xuất bản: Hà Nội: Chính trị quốc gia sự thật, 2017
  • Ký hiệu xếp giá: 338.9597 / Đ561L
  • Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVV.024918 ; Phòng Mượn: MVV.034758; MVV.034759
  • Tóm tắt: Trình bày về đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế; đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy các nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội;….
  1. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
  • Thông tin xuất bản: Hà Nội: Lao động, 2014
  • Ký hiệu xếp giá: 305.56209597 / V103T
  • Mô tả vật lý: 239tr., 19cm
  • Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVN.028420 ; Phòng Mượn: MVN.028430
  • Tóm tắt: Những vấn đề lí luận, thực tiễn đặt ra xung quanh vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Giới thiệu vai trò lãnh đạo và những giải pháp để củng cố, phát huy vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kì mới
  1. Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay
  • Thông tin xuất bản: Hà Nội: Lao động – xã hội, 2013
  • Ký hiệu xếp giá: 324.2597071 / Đ106C
  • Mô tả vật lý: 399tr., 27cm
  • Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.013039; Phòng Mượn: MVL.014318
  • Tóm tắt: Nói về tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận; Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và dân vận qua hai cuộc kháng chiến và thời kỳ đổi mới đất nước; tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới;….
  1. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam những mốc son lịch sử
  • Tác giả: Quang Minh
  • Thông tin xuất bản: Hà Nội: Chính trị hành chính, 2011
  • Ký hiệu xếp giá: 324.2597075 / Đ103H
  • Mô tả vật lý: 582tr., 27cm
  • Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.011214; DVL.011372; Phòng Mượn: MVL.011681
  • Tóm tắt: Sách cung cấp cho bạn đọc những tài liệu nghiên cứu hữu ích trong việc nghiên cứu, tìm hiểu và có một cái nhìn tổng thể về lịch sử phát triển và những quyết sách lớn của Đảng trong gần một thế kỷ qua ,…
  1. Bảy vị cố tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam sống mãi với chúng ta
  • Tác giả: Lê, Quốc Sử
  • Thông tin xuất bản: Hà Nội: Thời đại, 2011
  • Ký hiệu xếp giá: 324.25970709 / B112V
  • Mô tả vật lý: 450tr., 27cm
  • Vị trí tài liệu: Phòng Đọc: DVL.011018
  • Tóm tắt: Sách viết về tiểu sử của bảy vị cố tổng bí thư của Đảng cộng sản Việt Nam như đồng chí Trần Phú, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Văn Cừ,…

Views: 37

The post Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2025) appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Hành trình tìm về nơi khai sinh Đảng Cộng sản Việt Nam https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/noi-khai-sinh-dcsvn.html Fri, 24 Jan 2025 04:08:18 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31656 Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

The post Hành trình tìm về nơi khai sinh Đảng Cộng sản Việt Nam appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2025)

HÀNH TRÌNH TÌM VỀ NƠI KHAI SINH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Tròn 95 năm trước, tại khu vực Tống Vương Đài, Hương Cảng (Hồng Kông, Trung Quốc), đã diễn ra một sự kiện lịch sử quan trọng đối với dân tộc Việt Nam: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó không chỉ là sự hợp nhất của những tổ chức cộng sản tiên phong mà còn là ánh lửa đầu tiên thắp sáng hành trình đấu tranh giành độc lập và xây dựng một xã hội công bằng, tự do.

Tiến sĩ Chu Đức Tính, nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh. Ảnh: Hà Phương & Tùng Chi

Hành trình tìm về dấu tích lịch sử

Chúng tôi có cơ hội trò chuyện với Tiến sĩ Chu Đức Tính, nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh, người dành hơn nửa cuộc đời để nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh và hành trình lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong căn phòng ấm cúng với rất nhiều sách vở và tài liệu được sắp xếp ngăn nắp, Tiến sĩ Chu Đức Tính kể lại hành trình tìm về dấu tích lịch sử tại Hồng Kông với giọng đầy xúc động. Hành trình đó diễn ra vào năm 2007, khi ông và các cộng sự quyết tâm làm sáng tỏ những ẩn số về địa điểm diễn ra Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Những ký ức vẫn còn sống động trong tâm trí ông, như thể chuyến đi vừa mới diễn ra ngày hôm qua.

Ở tuổi ngoài bảy mươi, Tiến sĩ Chu Đức Tính vẫn nhớ rõ từng chi tiết nhỏ. “Chúng tôi đã lần mò từng trang bản đồ cũ, từng dấu vết nhỏ nhất trong thư viện và cơ quan lưu trữ tại Hồng Kông để xác minh địa điểm nơi Nguyễn Ái Quốc tổ chức Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản”, ông hồi tưởng. Chuyến đi không chỉ là một hành trình khảo cứu mà còn là cuộc đấu tranh không mỏi để tái hiện lại một phần quan trọng trong lịch sử dân tộc.

Mặc dù các tài liệu lịch sử ghi rõ rằng Hội nghị diễn ra từ ngày 6/1-7/2/1930 tại Hồng Kông, nhưng vị trí cụ thể vẫn là một dấu hỏi lớn. Niềm trăn trở ấy đã thôi thúc đoàn công tác, với sự tham gia của những nhà nghiên cứu giàu kinh nghiệm từ Bảo tàng Hồ Chí Minh, hướng dẫn viên địa phương và đặc biệt là bà Lady Borton – nhà văn, nhà báo người Mỹ nổi tiếng, người đã có công sưu tầm từ lưu trữ nước Anh hàng nghìn trang tư liệu về vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông năm 1931.

Với sự hỗ trợ tận tâm từ các cơ quan lưu trữ Hồng Kông, đoàn đã tìm thấy những tư liệu quý giá, từ bản đồ, hồi ký cho đến những ghi chép chi tiết về khu vực Tống Vương Đài – nơi được xác định là địa điểm tổ chức Hội nghị.

Sau nhiều ngày khảo sát thực địa và đối chiếu tài liệu, đoàn đã xác định được Tống Vương Đài – một khu vực nằm ở bán đảo Cửu Long – chính là nơi ghi dấu những hoạt động quan trọng của Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí. Ở khu vực Tống Vương Đài khi đó có một quả đồi không cao, trên đỉnh có đền thờ Tống Vương và gần đó là miếu thờ Hầu Vương. Chung quanh chân đồi là khu dân cư lao động với hai con đường lớn giao nhau: Tam Kung và Tống Vương Đài. Khu vực này còn có một sân vận động nhỏ, nơi thường xuyên diễn ra các trận bóng đá.

Theo hồi ký của các nhân chứng, Hội nghị hợp nhất Đảng đã kéo dài trong suốt một tháng, diễn ra ở nhiều địa điểm khác nhau để đảm bảo bí mật. Khi thì trong nhà một người công nhân, các đại biểu đóng giả làm đám người chơi mạt chược phòng trường hợp có ai bất ngờ xông vào; khi thì ở sân vận động để ngụy trang như những người xem bóng đá; lúc lại giả đi lễ trên miếu hay đi dạo ở bờ biển. Việc lựa chọn địa điểm này không chỉ bảo đảm an toàn, mà còn tận dụng được đặc điểm sầm uất của khu vực để che giấu các hoạt động cách mạng.

Tiến sĩ Chu Đức Tính cho biết, đoàn khảo sát đã phải tra cứu từng bản đồ từ năm 1926, 1930, 1945, 1970 cho đến nay, để hình dung sự thay đổi của khu vực qua các giai đoạn lịch sử. Các thông tin tìm được ở cơ quan lưu trữ cho thấy, năm 1941, quân đội Nhật Bản vào Hồng Kông, đã dùng thuốc nổ phá đồi Tống Vương để mở rộng sân bay Kai Tak, nhưng viên đá khắc ba chữ “Sung Wong Toi” – một phần còn sót lại – được chính quyền Hồng Kông bảo tồn và chuyển vào công viên gần đó. Đối với Tiến sĩ Chu Đức Tính, khi nhận ra viên đá này chính là chứng tích lịch sử duy nhất còn sót lại, ông không khỏi xúc động: “Viên đá ấy như chứng nhân thầm lặng, đưa chúng tôi trở lại thời kỳ hào hùng khi Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí thảo luận những quyết sách lớn lao cho cách mạng Việt Nam”.

Với tầm nhìn chiến lược và kinh nghiệm cách mạng phong phú, Nguyễn Ái Quốc đã chọn Hồng Kông làm nơi tổ chức Hội nghị thành lập Đảng. Hồng Kông không chỉ là một trung tâm giao thương quốc tế sầm uất mà còn là điểm kết nối lý tưởng với Quốc tế Cộng sản. Tại đây, Người đã tận dụng mạng lưới cơ sở cách mạng của Hồ Tùng Mậu và các đồng chí trung thành, đồng thời khéo léo lợi dụng luật pháp thuộc địa Anh để tổ chức các cuộc họp bí mật.

Thời điểm diễn ra Hội nghị lại trùng vào dịp Tết Nguyên đán, khi khu vực miếu Hầu Vương nhộn nhịp người dân đi lễ. Không khí đông đúc ấy đã tạo nên một lớp vỏ bọc hoàn hảo, giúp Hội nghị hợp nhất và sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra an toàn.

Cảm xúc lắng đọng từ hành trình khảo sát

Tống Vương Đài, tại Cửu Long, Hồng Kông, một trong những địa điểm diễn ra Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, từ ngày 6/1-8/2/1930.

Hành trình tìm kiếm dấu tích tại Hồng Kông không chỉ là một cuộc khảo sát khoa học, mà còn là một hành trình cảm xúc. Quá trình tìm kiếm có những lúc tưởng chừng đi vào bế tắc khi đoàn không thể tìm được số nhà 186 Tam Kung nơi Nguyễn Ái Quốc từng ở trước khi bị bắt ở Hồng Kông ngày 6/6/1931. Nhưng với sự kiên nhẫn và óc phân tích tinh tường, bà Lady Borton đã đưa ra ý tưởng rằng những thông tin quan trọng nhất có thể nằm rải rác trong các nguồn tài liệu địa phương mà trước đó chưa được khai thác hết. Nhờ sự hỗ trợ của bà, đoàn đã khám phá ra những chi tiết quan trọng về vị trí của ngôi nhà trên phố Tam Kung.

Tiến sĩ Chu Đức Tính kể lại, khoảnh khắc phát hiện ra bằng chứng khẳng định sự tồn tại của số nhà 186 Tam Kung là một trong những giây phút xúc động nhất trong cuộc hành trình tìm kiếm dấu tích lịch sử tại Hồng Kông. “Khi nhận ra rằng mình đã tìm ra điều mà biết bao nhiêu người Việt Nam khác đã đau đáu tìm kiếm, tôi không kìm được nước mắt. Đây không phải chỉ là một phát hiện, mà là minh chứng rõ ràng rằng những gì Nguyễn Ái Quốc viết trong tài liệu về địa điểm này là sự thật. Số nhà 186 Tam Kung, nơi Người từng ở và tổ chức các hoạt động cách mạng, thật sự đã tồn tại”, ông chia sẻ.

Đối với Tiến sĩ Tính, việc tìm thấy bản đồ không chỉ đơn thuần là một công việc nghiên cứu, mà là sự khẳng định về tính chính xác của lịch sử và lòng tri ân sâu sắc đối với Bác Hồ. “Khoảnh khắc ấy, tôi biết rằng tất cả nỗ lực của chúng tôi trong suốt hành trình đã được đền đáp. Đó là một cảm giác hạnh phúc, tự hào, và đầy xúc động” – ông bộc bạch, ánh mắt vẫn rực sáng khi nhắc lại kỷ niệm ấy.

Trong chuyến khảo sát đó, Tiến sĩ Chu Đức Tính còn tìm đến nhà tù Victoria, nơi Nguyễn Ái Quốc từng bị giam cầm năm 1931. “Căn phòng giam chật hẹp, không có ánh sáng, không khí lạnh lẽo, phía trên có 1 tổ tò vò. Tôi đã đứng lặng người khi tưởng tượng những gì Bác Hồ, với thân hình gầy gò và bệnh tật, đã phải chịu đựng trong hoàn cảnh ấy. Đó là một cảm xúc khó quên, vừa thương xót, vừa ngưỡng mộ sức mạnh tinh thần phi thường của Người”.

Hiện nay, các địa điểm lịch sử tại khu vực Tống Vương Đài đã thay đổi hoàn toàn theo thời gian. Ngọn đồi Tống Vương từng là trung tâm các hoạt động cách mạng nay không còn, thay vào đó là các công trình hiện đại. Đường Tam Kung hiện chỉ còn đến số nhà 148, trong khi đoạn có số nhà 186 – nơi Nguyễn Ái Quốc từng hoạt động – đã bị phá bỏ vào năm 1970 để xây dựng Đại lộ Olympic. Duy chỉ còn lại viên đá khắc ba chữ “Tống Vương Đài,” đặt trong công viên Tống Vương Đài, được coi như biểu tượng đại diện cho toàn bộ địa danh lịch sử này, ông Tính chia sẻ.

Kết nối ký ức và hiện tại

Tống Vương Đài không chỉ là nơi diễn ra Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn là một biểu tượng cho sự kiên cường, trí tuệ và khát vọng độc lập của dân tộc Việt Nam. Chính tại đây, Nguyễn Ái Quốc đã truyền cảm hứng cho các đồng chí của mình, thống nhất những tổ chức cách mạng để xây dựng một đảng vững mạnh.

Hồng Kông, với vị trí chiến lược, không chỉ là nơi Nguyễn Ái Quốc chọn để tổ chức hội nghị mà còn là nơi Người vượt qua thử thách lớn trong cuộc đời mình. Vụ án Nguyễn Ái Quốc tại Hồng Kông năm 1931 đã trở thành một câu chuyện cảm động về công lý và tình người. Tiến sĩ Chu Đức Tính kể: “Bác Hồ không chỉ thoát khỏi án tù nhờ tài năng của luật sư Loseby, mà còn khiến ông thay đổi hoàn toàn quan điểm. Từ chỗ nhận tiền để bào chữa, Loseby đã trở thành một người bạn thân thiết, dành tất cả tâm huyết để bảo vệ Bác Hồ”.

Hiện nay viên đá khắc 3 chữ Tống Vương Đài đặt tại công viên Tống Vương Đài. Ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Ngày nay, dù ngọn đồi Tống Vương Đài đã không còn, nhưng viên đá khắc chữ vẫn như một nhịp cầu nối quá khứ với hiện tại,nhắc nhở thế hệ hôm nay về giá trị lịch sử và sự hy sinh của những người đi trước. Đúng như nhà thơ Tố Hữu viết trong bài “30 năm đời ta có Đảng”: “Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ/Không quê hương sương gió tơi bời/Đảng ta sinh ở trên đời / Một hòn máu đỏ nên người hôm nay”, sự ra đời của Đảng là kết tinh của cả một quá trình đấu tranh gian khổ nhưng đầy vinh quang, Tiến sĩ Chu Đức Tính nhấn mạnh.

Theo Tiến sĩ Chu Đức Tính, Tống Vương Đài không chỉ là một địa danh, mà là một “địa chỉ đỏ” – nơi giáo dục thế hệ trẻ về lòng yêu nước, tinh thần cách mạng và khát vọng hòa bình.

“Đứng giữa không gian ấy, tôi không chỉ cảm nhận được dấu chân của Bác Hồ, mà còn cảm nhận được sứ mệnh của mình – giữ gìn những giá trị lịch sử để những câu chuyện ấy tiếp tục được kể”, ông xúc động chia sẻ.

Hồng Kông và Tống Vương Đài là minh chứng sống động cho sự khởi đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam – ngọn đuốc soi đường cho những chặng đường vẻ vang của dân tộc. Nhìn về hiện tại, việc gìn giữ những giá trị này không chỉ là tri ân quá khứ mà còn là trách nhiệm của thế hệ hôm nay, để lịch sử mãi là nguồn cảm hứng dẫn lối cho tương lai.

Hà Phương, Tùng Chi // https://nhandan.vn/

Views: 3

The post Hành trình tìm về nơi khai sinh Đảng Cộng sản Việt Nam appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Gặp mặt kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/95-nam-ngay-thanh-lap-dcsvn-2.html Wed, 22 Jan 2025 04:17:44 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31668 Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

The post Gặp mặt kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2025)

GẶP MẶT KỶ NIỆM 95 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Chiều 21/1, Tỉnh ủy – HĐND – UBND – UBMTTQ Việt Nam tỉnh long trọng tổ chức Chương trình gặp mặt kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2025) và mừng Xuân Ất Tỵ năm 2025.

Tham dự có đồng chí Nguyễn Hoài Anh – Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; đồng chí Đặng Hồng Sỹ – Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh; đồng chí Đoàn Anh Dũng – Chủ tịch UBND tỉnh; nguyên lãnh đạo tỉnh qua các thời kỳ; lãnh đạo các sở, ban, ngành, Mặt trận, các tổ chức chính trị – xã hội.

Quang cảnh diễn ra buổi gặp mặt
Các lãnh đạo, nguyên lãnh đạo tỉnh tham dự buổi họp mặt

95 năm qua, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giương cao ngọn cờ Cách mạng, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, làm nên những thành tựu vĩ đại. Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam được quốc tế đánh giá là một quốc gia ổn định về chính trị, có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, tiềm lực và uy tín ngày càng được củng cố và tăng lên. Điều đó khẳng định vững chắc vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam.

Các tiết mục văn nghệ tại buổi gặp mặt

Phát biểu tại buổi gặp mặt, đồng chí Nguyễn Hoài Anh – Bí thư Tỉnh ủy khẳng định: 95 năm qua, quân và dân Bình Thuận một lòng đi theo Đảng, chung thủy, sắt son với Đảng, lập nên truyền thống “tự lực tự cường, chiến đấu oanh liệt, thắng lợi vẻ vang” với những chiến công vang dội, góp phần làm nên những thắng lợi chung của dân tộc Việt Nam. Trong thời kỳ xây dựng đất nước, tiến lên Chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân Bình Thuận đã không ngừng phấn đấu, từng bước xây dựng quê hương Bình Thuận ngày càng giàu đẹp hơn. Kinh tế liên tục tăng trưởng mỗi năm với tốc độ khá. Các tiềm năng, lợi thế của tỉnh được khai thác, phát huy ngày càng tốt hơn. Đời sống nhân dân ở các vùng nhìn chung được cải thiện đáng kể. Bộ mặt đô thị và nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến cũ ngày càng khởi sắc. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và công tác quân sự quốc phòng được chú trọng và tăng cường. Hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở được quan tâm, xây dựng, củng cố. Triển khai thực hiện quy hoạch tỉnh Bình Thuận thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nhiều dự án động lực có quy mô lớn đang hình thành hứa hẹn sẽ thúc đẩy quê hương Bình Thuận phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới.

Đồng chí Nguyễn Hoài Anh – Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh phát biểu tại buổi gặp mặt

Bí thư Tỉnh ủy thông tin, năm 2025, là năm diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của đất nước và của tỉnh Bình Thuận; là năm tập trung tổ chức đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2025 – 2030; phấn đấu đạt tốc độ tăng trường từ 10% trở lên. Tỉnh ủy đã xác định chủ đề năm 2025 là: “Tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp; sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả”. Các cấp ủy, chính quyền cần tập trung thực hiện tinh gọn bộ máy, đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, tăng cường chuyển đổi số; dồn sức triển khai Quy hoạch tỉnh Bình Thuận thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Phát triển mạnh 3 trụ cột kinh tế của tỉnh: Công nghiệp, du lịch, nông nghiệp. Chú trọng triển khai thực hiện các chính sách, quy định mới; đẩy nhanh tiến độ triển khai, thực hiện các công trình, dự án trọng điểm của tỉnh. Phấu đấu đến cuối năm 2025, hoàn thành việc xây, sửa chữa nhà tình nghĩa, xóa nhà tạm, nhà dột nát cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn.

“Tỉnh ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ Việt Nam tỉnh Bình Thuận rất mong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Bình Thuận và các doanh nghiệp cùng đồng lòng, chung sức, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020 – 2025 và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh năm 2025. Đặc biệt, rất mong các đồng chí cán bộ, đảng viên dù ở bất cứ cương vị công tác nào, dù nghỉ hưu hay đương chức đều ra sức xây dựng, giữ gìn đoàn kết vì mục tiêu chung là sự phát triển của quê hương Bình Thuận; thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết – Thành công, thành công, đại thành công””, Bí thư Tỉnh ủy nhấn mạnh.

Các đại biểu tham dự buổi gặp mặt

Tại buổi gặp mặt, các đại biểu cùng xem lại những thành quả đạt được trong năm 2024 của tỉnh nhà. Theo đó, dù còn rất nhiều khó khăn, thách thức, song với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, sự chung sức, đồng lòng của các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, tỉnh ta đã đạt được những kết quả rất tích cực. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng đạt 7,25%, cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Quy mô nền kinh tế tiếp tục mở rộng, đạt hơn 128 ngàn tỷ đồng, xếp thứ 26 của cả nước. Đời sống nhân dân, kể cả vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng núi tiếp tục được nâng lên. Quốc phòng – an ninh được giữ vững. Sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được củng cố và phát huy.

Chương trình gặp mặt kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và mừng Xuân Ất Tỵ 2025 đã khép lại trong không khí ấm áp, đầy tự hào và xúc động. Đây là dịp để cùng ôn lại truyền thống vẻ vang của Đảng, tri ân những đóng góp to lớn của các thế hệ lãnh đạo của tỉnh đã và đang cống hiến hết mình cho sự phát triển của quê hương, đất nước.

(Ảnh: Ngọc Lân)

Ngọc Diệp // https://baobinhthuan.com.vn/

Views: 4

The post Gặp mặt kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về Đảng và đảng viên https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/chu-tich-ho-chi-minh-noi-ve-dang.html Wed, 22 Jan 2025 03:48:15 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31647 Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

The post Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về Đảng và đảng viên appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2025)

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH NÓI VỀ ĐẢNG VÀ ĐẢNG VIÊN

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh. Người có nhiều bài nói, bài viết về Đảng, vai trò, nhiệm vụ của Đảng và mỗi đảng viên trước nhân dân, Tổ quốc, dân tộc; chứa đựng những giá trị sâu sắc, bền vững, tiếp tục định hướng cho công tác xây dựng Đảng hiện nay. Dưới đây là những lời trích của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về Đảng và đảng viên:

– “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. (1)

“Đảng không phải là nơi để thăng quan, tiến chức, để phát tài. Vào Đảng là để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, đảng viên phải trở thành người con hiếu thảo của Tổ quốc, của giai cấp”. (2)

– “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. (3)

– “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại!”. (4)

“Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. (5)

– “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh chỉ như một người”. (6)

– “Sức mạnh của Đảng là ở sự đoàn kết nhất trí. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối và chính sách của Đảng, tôn trọng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng”. (7)

– “Đảng ta thành tích khá nhiều, nhưng khuyết điểm cũng không ít. Chúng ta cần phải thật thà tự phê bình để sửa chữa. Phải cố sửa chữa để tiến bộ”. (8)

– Phải thường xuyên nghiêm chỉnh phê bình và thật thà tự phê bình để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, để cùng nhau tiến bộ. Làm cách mạng thì có đúng có sai. Cố nhiên đúng phải là chính, sai là phụ. Có sai thì chúng ta giúp nhau kiên quyết sửa chữa và cùng nhau hăng hái tiến lên”. (9)

– “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở trong quần chúng. Chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc đều tiến bộ không ngừng. Trái lại, nếu chi bộ kém thì công việc không trôi chảy”. (10)

– “… cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. (11)

– “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. (12)

– “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.

Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Đồng chí ta nhiều người đã làm được nhưng vẫn còn những người hủ hóa. Đảng có trách nhiệm gột rửa cho các đồng chí đó”. (13)

– “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng”. (14)

– “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hóa, chính trị của nhân dân”. (15)

– “Đảng là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc. Để làm tròn nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc, Đảng phải mạnh, toàn Đảng tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí. Cho nên chỉnh Đảng là việc chính, phải đặc biệt chú trọng”… (16)

Những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng, về đạo đức cách mạng được Đảng ta kế thừa và vận dụng sáng tạo vào việc xây dựng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay./.

(1): Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 12, tr.510.

(2): Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 8, tr.34.

(3), (6), (11), (12), (13), (15): Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 5, tr.698, tr.553, tr 269, tr.273, tr.552, tr.250.

(4): Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 10, tr.2.

(5): Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 12, tr 510.

(7), (9), (10): Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 11, tr.23, tr.154, tr.161.

(8), (16): Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 6, tr.166, tr.463.

(14): Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập 9, tr.290.

// https://nvsk.vnanet.vn/

Views: 1

The post Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về Đảng và đảng viên appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/phat-huy-suc-manh-dai-doan-ket.html Mon, 20 Jan 2025 04:09:00 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31661 Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

The post Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2025)

PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC

Suốt 95 năm qua, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng trở thành một quy luật xây dựng và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử của Đảng; nhân tố quan trọng tạo nên bản lĩnh, sức mạnh chiến đấu của Đảng.

Trong mỗi bước chuyển của cách mạng, với chủ trương, đường lối đúng đắn và lãnh đạo thống nhất, với sức mạnh của khối đoàn kết từ trung ương xuống cơ sở, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước.

Đoàn kết, thống nhất trong Đảng – cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân

Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam, với những giá trị, triết lý đạo đức và nhân sinh: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”, “Lá lành đùm lá rách”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”… Đến thời đại Hồ Chí Minh, xây dựng ý chí và tinh thần đoàn kết được xác định là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Và chính Người đã vạch ra phương châm cho sự thắng lợi tất yếu của cách mạng: “Ðoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công” (1).

Là Người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Người cho rằng sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất, là sự vận động và phát triển theo đúng quy luật của Đảng. Đoàn kết, thống nhất trong Đảng là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền mà không đoàn kết thống nhất thì sự nghiệp cách mạng của dân tộc không thể thắng lợi.

Từ ngày 6/1 – 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam họp ở Hong Kong (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Ảnh: TTXVN phát

Từ khi mới ra đời, Đảng đã gắn bó với dân tộc, hòa mình cùng dân tộc, sinh tồn trong dân tộc. Tập hợp trong hàng ngũ của Đảng là những người xuất thân từ nhiều giai cấp và tầng lớp khác nhau, chủ yếu là công nhân và nông dân, nhưng đều chung lý tưởng, mục tiêu và lợi ích. Lý tưởng đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Mục tiêu đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lợi ích đó là phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, ngoài ra Đảng không có lợi ích riêng tư nào khác. Chính lý tưởng chung, mục tiêu chung và lợi ích chung là cơ sở của sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đoàn kết, thống nhất thực sự là động lực chủ yếu của sự phát triển của Đảng. 

Từ nhận thức sâu sắc rằng, “đoàn kết làm ra sức mạnh”, “đoàn kết là thắng lợi”, Đảng ta đã không ngừng chăm lo xây dựng, củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, để Đảng thực sự là đội tiền phong, bộ tham mưu vững mạnh, người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Cơ sở để xây dựng đoàn kết thống nhất trong Đảng để “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”, chính là đường lối, quan điểm và Điều lệ của Đảng; là thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc về xây dựng Đảng; là phát huy vai trò gương mẫu trong mọi lĩnh vực công tác cũng như cuộc sống đời thường của đội ngũ cán bộ, đảng viên… 

Thời kỳ 1945-1954: Đảng lãnh đạo đất nước thực hiện đồng thời nhiệm vụ chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn. Trong ảnh: Phong trào “Hũ gạo cứu đói” với tinh thần “Một nắm khi đói bằng một gói khi no” lan rộng khắp cả nước. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát

Đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan điểm, ở tư tưởng mà đã trở thành một chiến lược cách mạng, thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân và được xây dựng thành một lực lượng có tổ chức, đó chính là Mặt trận Dân tộc thống nhất – Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trải qua các tên gọi, nội dung và hình thức tổ chức khác nhau, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã quy tụ mọi tầng lớp nhân dân, tạo nên một khối đoàn kết thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm nên những chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Đó là cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật dẫn đến thành công của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; là Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam ruột thịt. Là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Trong giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước, Mặt trận Tổ quốc tiếp tục tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức thành viên tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; phát huy dân chủ, thi đua đổi mới sáng tạo; thực hiện giám sát và phản biện xã hội; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.

Sáng 15/5/1975, hàng triệu nhân dân Sài Gòn – Gia Định đổ về quảng trường trước trụ sở Ủy ban quân quản thành phố để dự Lễ mừng chiến thắng. Chủ tịch Tôn Đức Thắng cùng nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ, MTTQ Việt Nam tham dự buổi lễ trọng đại này. Ảnh: TTXVN

Có thể thấy, đoàn kết chính là cội nguồn tạo nên sức mạnh lãnh đạo của Đảng, cũng là cội nguồn sức mạnh của dân tộc. Nhờ đó, trải qua bao khó khăn, thử thách, cách mạng Việt Nam đã đi đến được thắng lợi cuối cùng, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác” (2).

Đoàn kết bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc

Với chủ trương, giải pháp đồng bộ, Đảng ta đã phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh toàn dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa nước ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện thành công công cuộc đổi mới. Từ một đất nước nghèo, có cơ sở vật chất-kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình. Đặc biệt, năm 2024, trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động, Việt Nam ghi dấu ấn mạnh mẽ với tăng trưởng GDP ấn tượng 7,09%, vượt các dự báo và trở thành điểm sáng về tăng trưởng trong khu vực; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành ước đạt 114 triệu đồng/người, tương đương 4.700 USD, tăng 377 USD so với năm 2023. Đời sống của nhân dân đã được cải thiện đáng kể. Chất lượng cuộc sống từng bước được nâng cao với sự chăm lo đầu tư phát triển các ngành y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước đột phá; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố. Chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng-an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững. Vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Có thể thấy rõ, thắng lợi trong đấu tranh giành chính quyền, trong đấu tranh dựng nước, giữ nước và những thành quả trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là những thành tựu của gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới của đất nước, xét đến cùng đều là kết quả của sự đoàn kết thống nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Nói một cách khác, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng càng được củng cố thì sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc càng được tăng cường. Đảng đoàn kết, dân tộc đại đoàn kết sẽ nhân nguồn sức mạnh nội lực để đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam đến thắng lợi hoàn toàn. Đúng như lời khẳng định của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại buổi Họp báo sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (ngày 3/8/2024): “Không có gì bằng sự đoàn kết, thống nhất. Đoàn kết thống nhất là sức mạnh của chúng ta. Sự đoàn kết từ trong Đảng, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương sẽ tiếp tục được lan tỏa và phát huy. Đây là truyền thống rất tốt đẹp, là sức mạnh của Đảng, quốc gia, vượt qua được nhiều khó khăn, thử thách, đạt được những thắng lợi, mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra”.

95 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhìn tổng quát, dân tộc Việt Nam đã trải qua hai kỷ nguyên vẻ vang. Kỷ nguyên thứ nhất là Kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội (1930-1975), khởi đầu từ năm 1930 khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dẫn đến thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và những chiến công vĩ đại trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược (1946-1975) cùng những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những năm 1954-1975. Kỷ nguyên thứ hai là Kỷ nguyên thống nhất đất nước, đổi mới, phát triển (1975-2025), mở đầu bằng thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, thu non sông về một mối, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội năm 1975, tạo tiền đề vững chắc để đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiến hành công cuộc đổi mới bắt đầu từ Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986, tạo bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên các lĩnh vực. Và bây giờ, Việt Nam bước vào kỷ nguyên thứ ba, Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc mà thời điểm mở đầu là Đại hội lần thứ XIV của Đảng, ghi dấu ấn 40 năm đổi mới (1986-2026).

Trong bài trả lời phỏng vấn Thông tấn xã Việt Nam nhân dịp năm mới Ất Tỵ 2025, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là kỷ nguyên phát triển bứt phá, tăng tốc dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc; đuổi kịp, tiến cùng, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; mọi người dân đều được phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, văn minh”.

Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ, “từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ, cơ hội chiến lược, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. Điều quan trọng là chúng ta phát huy được tối đa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự nỗ lực, quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”./.

Diệp Ninh // https://nvsk.vnanet.vn/

(1): Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 13, tr 120.

(2): Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, t.15, tr.621.

Views: 2

The post Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Bài cuối: Đội tiên phong trước sứ mệnh lịch sử https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/ban-linh-tri-tue-bai-4.html Sun, 19 Jan 2025 07:19:33 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31688 Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

The post Bài cuối: Đội tiên phong trước sứ mệnh lịch sử appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2025)

BÀI CUỐI: ĐỘI TIÊN PHONG TRƯỚC SỨ MỆNH LỊCH SỬ

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam, với vai trò là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc, đang gánh vác sứ mệnh lịch sử đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới.

Với 95 năm lịch sử hào hùng cùng nỗ lực không ngừng xây dựng, chỉnh đốn, Đảng ta chiếm trọn niềm tin yêu của nhân dân và quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà nhân dân giao phó.

Ý Đảng hòa quyện với lòng dân trở thành nguồn động lực mạnh mẽ, mang lại sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước và cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Ảnh: Đỗ Tâm

1. Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ. Trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu rộng và đối mặt với nhiều thách thức mới, Đảng ta không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Các nghị quyết trung ương, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, đều nhấn mạnh yêu cầu đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và đấu tranh chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đảng chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên và phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ lãnh đạo.

Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng càng được quan tâm, chú trọng và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, thể hiện rõ quyết tâm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Trong đó, Đảng đã thực hiện phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” trong kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật. Nhiều vụ việc vi phạm nghiêm trọng, liên quan đến cán bộ cấp cao thuộc diện Trung ương quản lý đã được phát hiện, xử lý nghiêm minh. Nhiều cán bộ, bao gồm cả Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương, lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương đã bị kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự khi có vi phạm. Đây là minh chứng cho sự công tâm, quyết liệt và tính răn đe mạnh mẽ của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương cùng các cấp ủy, ủy ban Kiểm tra cấp ủy Đảng các cấp đã đẩy mạnh kiểm tra, giám sát trên các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực như quản lý tài chính, ngân sách, đầu tư công, đất đai và dự án trọng điểm… Các cuộc kiểm tra, giám sát không chỉ giúp phát hiện vi phạm mà còn góp phần phòng ngừa, ngăn chặn từ sớm, từ xa các nguy cơ sai phạm.

Vừa qua, dư luận nhân dân có những lúc bày tỏ băn khoăn, lo rằng liệu công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có được duy trì và “lò” có còn nóng nữa không. Trước câu hỏi đó, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định rằng, cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực không những tiếp tục duy trì mà còn phải làm mạnh hơn, rộng hơn. Hành động và kết quả thực tiễn cho thấy Đảng ta “nói là làm”. Chỉ tính từ đầu năm 2024 đến phiên họp của Ban Chỉ đạo trung ương về Phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực diễn ra tháng 10-2024, đã có 52 cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý bị xử lý kỷ luật khi có vi phạm. Đặc biệt, sự phối hợp giữa Ủy ban Kiểm tra Trung ương với các cơ quan tư pháp và thanh tra đã đạt được hiệu quả cao trong việc thu hồi tài sản tham nhũng, xử lý triệt để các vụ việc tồn đọng, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Không chỉ tập trung vào phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, năm 2024 còn đánh dấu bước chuyển mới rất quan trọng khi Đảng tập trung mạnh vào công tác phòng, chống lãng phí. Ban Chỉ đạo trung ương về Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được bổ sung thêm chức năng phòng, chống lãng phí, cho thấy trí tuệ sáng suốt của Đảng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đã đáp ứng sự tin tưởng và lòng mong mỏi của nhân dân. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, chống lãng phí không chỉ giới hạn trong lĩnh vực tài chính, ngân sách, mà còn bao trùm cả quản lý đất đai, tài nguyên, thời gian lao động và bộ máy hành chính. Thực hiện phòng, chống lãng phí cần kiểm soát chặt chẽ các dự án đầu tư công, tinh giản biên chế, loại bỏ các thủ tục hành chính rườm rà gây lãng phí thời gian và công sức của người dân và doanh nghiệp. Điểm mới trong chỉ đạo này còn nằm ở việc chống lãng phí vừa là biện pháp xử lý hậu quả, vừa được lồng ghép với phòng ngừa, xây dựng văn hóa tiết kiệm trong toàn xã hội.

2. Việc Trung ương Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm xác định nhiệm vụ chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc – là một quyết sách kịp thời, đúng đắn và mang tính lịch sử. Điều này phản ánh bước tiến vượt bậc trong tư duy và tầm nhìn chiến lược của Đảng, khi nắm bắt chính xác xu thế phát triển toàn cầu và yêu cầu cấp thiết của đất nước trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế. Tư duy đột phá về phát triển kinh tế tri thức, chuyển đổi số, ứng phó với biến đổi khí hậu và nâng cao đời sống nhân dân trong kỷ nguyên mới còn cho thấy sự nhạy bén của Đảng trong việc định hướng tương lai. Đây không chỉ là nhiệm vụ tất yếu để Việt Nam hội nhập sâu rộng mà còn khẳng định khát vọng cháy bỏng đưa dân tộc vươn lên trở thành một quốc gia thịnh vượng, độc lập, sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Mặt khác, điều này thể hiện rõ trách nhiệm và tầm vóc lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới.

Để đảm đương được sứ mệnh lịch sử đó, Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với tập trung phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Trong bối cảnh đất nước đang đối mặt với nhiều thách thức từ cả bên trong lẫn bên ngoài, nhiệm vụ này càng trở nên cấp bách.

Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cần đi đôi với việc kiểm soát quyền lực và chống suy thoái trong nội bộ. Quyền lực, nếu không được kiểm soát chặt chẽ, sẽ dẫn đến lạm dụng và tham nhũng, làm xói mòn niềm tin của nhân dân. Nguyên tắc tập trung dân chủ, việc minh bạch hóa tài sản, tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh các vi phạm cần được thực hiện nhất quán và quyết liệt.

Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh không chỉ là nhiệm vụ của các tổ chức và đảng viên, mà còn cần sự giám sát và đồng hành từ toàn thể nhân dân. Chỉ khi Đảng là trung tâm đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân, thì Đảng mới phát triển trường tồn và tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Sự trong sạch, vững mạnh của Đảng gắn liền với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng và chất lượng cán bộ, đảng viên. Điều này đòi hỏi cấp ủy, tổ chức Đảng và người đứng đầu phải không ngừng đổi mới tư duy, củng cố nền tảng chính trị, tư tưởng và đạo đức, bảo đảm rằng tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên luôn chăm lo cho lợi ích của nhân dân và đất nước, không tham nhũng, tiêu cực, không gây ra lãng phí, mẫu mực về phẩm chất đạo đức, trách nhiệm và liêm chính.

Sự vững mạnh của Đảng còn được quyết định bởi khả năng thích ứng trước những thay đổi của thời đại. Đảng cũng như mỗi tổ chức Đảng hay cán bộ, đảng viên cần tiếp tục nâng cao trình độ lý luận, đổi mới phương thức lãnh đạo, ứng dụng khoa học, công nghệ và thúc đẩy sự tham gia của các tầng lớp nhân dân trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và hoạch định đường lối, chủ trương cũng như tổ chức thực hiện. Có như vậy, ý Đảng mới hòa quyện với lòng dân và đi vào cuộc sống một cách tự nhiên, trở thành nguồn động lực mạnh mẽ, mang lại sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước và cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho nhân dân.

Minh Nguyệt // https://hanoimoi.vn/

Bài 1: Bản lĩnh, trí tuệ, đưa dân tộc vào kỷ nguyên mới.

Bài 2: Đảng Cộng sản Việt Nam – Nhân tố quyết định mọi thắng lợi

Bài 3: Vai trò lịch sử của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Views: 2

The post Bài cuối: Đội tiên phong trước sứ mệnh lịch sử appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Bài 3: Vai trò lịch sử của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/ban-linh-tri-tue-bai-3.html Fri, 17 Jan 2025 07:15:07 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31685 Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

The post Bài 3: Vai trò lịch sử của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2025)

BÀI 3: VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930 gắn liền với vai trò quyết định của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Đây là một tất yếu lịch sử mang tính xu thế thời đại và tiếp biến truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, tạo đột biến chính trị, chấm dứt sự khủng hoảng hệ tư tưởng lãnh đạo.

Đồng thời, mở ra kỷ nguyên tự chủ chính trị theo hệ tư tưởng tiên tiến trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XX, là cầu nối đưa dân tộc ta bước tới đài vinh quang hôm nay và mai sau.

Kỷ nguyên tìm đường cứu nước mới

Trong chế độ phong kiến ở Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới, gần ta nhất là Trung Quốc, sự tranh giành quyền bính giữa các thế lực phong kiến luôn tạo ra xung lực lôi kéo các giai tầng xã hội bị cuốn vào vòng xoáy thoán đoạt ngôi báu. Việt Nam sau thời Tây Sơn có nhiều tiến bộ, nhưng sự thắng thế của triều Nguyễn lại mang đến nhiều điều bất ổn, gây tổn hại tới tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc.

Nhìn lại các triều đại phong kiến Đại Việt thời Lý – Trần, tất cả các cuộc kháng chiến vệ quốc đều dựa vào sức mạnh kết nối lòng dân với triều đình. Khởi nghĩa Lam Sơn, nhờ lòng dân “bốn phương manh lệ” hướng về minh chủ Lê Lợi giương cờ nghĩa ở Lam Sơn, nên đã “bình Ngô” toàn thắng. Phong trào nông dân Tây Sơn vừa cùng lúc đánh đổ Vua Lê – chúa Trịnh cát cứ, vừa đánh tan quân Xiêm và quân Thanh xâm lược, dựng nên triều Tây Sơn với nhiều chính sách canh tân tiến bộ, thể hiện khát vọng tự chủ, tự lực, tự cường.

Song đáng tiếc là do Quang Trung – Nguyễn Huệ mất sớm, nên Nguyễn Ánh dựa vào sự trợ giúp của thực dân phương Tây, trực tiếp là Pháp, đã lật đổ triều Tây Sơn. Cuộc thanh trừng khốc liệt của triều Nguyễn đối với triều Tây Sơn mang lại sự khôi phục và củng cố quyền lực cho triều Nguyễn, đồng thời phá rào đưa thực dân phương Tây vào xâm lược, đặt ách đô hộ dân tộc ta. Điểm khác của triều Nguyễn so với các vương triều phong kiến tự chủ trước đây là bị phân chia nội lực ngay trong tầng lớp vương triều quý tộc, triều Nguyễn còn mang nặng tâm lý ám ảnh từ phong trào Tây Sơn, nên “sợ dân hơn sợ giặc” …

Chưa kể, ngay trong triều đình còn phát sinh thành 2 phái chủ chiến và chủ hòa đối với thực dân Pháp. Thành ra, trong lòng xã hội Việt Nam thời Nguyễn, cùng lúc tồn tại nhiều mâu thuẫn, nổi lên là mâu thuẫn dân tộc, là mẫu số chung đòi hỏi mọi giai tầng phải cùng nhau hợp sức mới giải quyết được. Sự xói mòn kết cấu xã hội đã trực tiếp phá vỡ giềng mối kết nối sức mạnh dân tộc trước yêu cầu lịch sử phải giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.

Song điều đáng nói là sự hỗn dung bởi các luồng tư tưởng khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau, như: Tư tưởng phong kiến vốn ăn sâu ngàn đời trong lòng xã hội Việt Nam; tư tưởng tư sản mới manh nha du nhập vào Việt Nam theo hình thức áp đặt bởi kẻ cướp nước; tư tưởng trung quân ái quốc không phùng thời giữa người nắm quyền bính với người phục vụ bộ máy nhà nước phong kiến thực dân; tư tưởng nông dân với những hạn hẹp tư duy chiến lược không thể trở thành lực lượng dẫn đường tranh đấu chống thực dân, càng không thể lật đổ phong kiến.

Những mối tương phản tư tưởng như vậy trong lòng xã hội Việt Nam được phản ánh qua hàng loạt sự kiện, phong trào chống Pháp, kháng triều đình, kéo dài suốt nửa thế kỷ XIX, tới đầu thế kỷ XX, trải rộng hầu khắp mọi miền đất nước. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất càng khoét sâu các mâu thuẫn trong lòng xã hội Việt Nam, chưa kể về mặt hành chính và quyền lực chính trị cũng bị thực dân Pháp chia làm 3 kỳ, triều đình Huế chỉ còn lại thân phận “vua là tượng gỗ”, trực tiếp cai trị xứ Trung Kỳ để duy trì quyền lực, bóc lột người nông dân.

Sự kiện ngày 5-6-1911 (từ bến cảng Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành lên con tàu Amiral Latouche Tréville ra đi tìm đường cứu nước) đánh dấu khởi đầu một kỷ nguyên mới cho lịch sử nước ta, đó là kỷ nguyên tìm đường cứu nước mới.

Trước và cùng thời với Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc, có nhiều người yêu nước vật vã với nỗi đau mất nước, xả thân cứu nước, rơi vào ngõ cụt lịch sử, nên đành phải tha hương tìm con đường cứu nước mới, dù trong tâm trí họ chưa biết con đường cứu nước mới ở đâu, là gì, làm thế nào tìm kiếm được.

Nguyễn Tất Thành đã có xuất phát điểm khác với thế hệ cha anh, không bị đắm chìm trong những cuộc khởi nghĩa vũ trang do văn thân sĩ phu yêu nước lãnh đạo, hoặc do nông dân nổi lên, cũng chẳng bị cuốn hút bởi khởi nghĩa do những người theo hệ tư tưởng tư sản lãnh đạo, hay phong trào đấu tranh dân chủ theo khuynh hướng tư sản. Hệ tư tưởng phong kiến đã hết thời, hệ tư tưởng tư sản lại đang phơi bày bản chất phục vụ cho chủ nghĩa thực dân áp bức, bóc lột, nô dịch dân tộc.

Với tầm nhìn thoát ra khỏi hệ tư tưởng phong kiến, vượt lên hệ tư tưởng tư sản, Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc tự mở ra cơ hội lịch sử cho mình được tiếp cận luồng tư tưởng tiên tiến, đó là chủ nghĩa Mác – Lênin. Sự bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lênin không phải là ngẫu nhiên, mà là lô gíc lịch sử. Giữa ngã ba đường lịch sử, có 2 đường dẫn đến ngõ cụt, còn một ngả đường phía trước mang ẩn số thời đại, Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc đã tự mình đoạn tuyệt 2 ngõ cụt, chỉ giữ lại truyền thống yêu nước, thương nòi, tự tin, tự chủ dấn thân vào cuộc hành trình 30 năm tìm chân lý thời đại.

Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra phương pháp tiếp cận mới về đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người, gắn kết cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Nhờ có tầm tư duy xuất chúng và sự trải nghiệm trong phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc đã tự nâng tầm vóc của mình, qua đó nâng cao sứ mệnh lịch sử cho những người yêu nước tinh hoa đang hoạt động ở nước ngoài và ở trong nước.

Từ năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), thông qua các lớp huấn luyện cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã gieo những hạt giống đỏ đầu tiên, từ đó tạo lan tỏa chính trị trong phong trào công nhân, phong trào yêu nước ở Việt Nam. Dẫn đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, đòi hỏi phải có một tổ chức cộng sản chân chính, thống nhất vai trò lãnh đạo cách mạng nước nhà đi đúng hướng, tránh phân chia, cát cứ.

Tầm nhìn chiến lược và sách lược đi trước thời đại

Sự kiện ngày 3-2-1930 (với sự hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng, sau đó 3 tuần lễ, Đông Dương Cộng sản liên đoàn cũng xin gia nhập), thực sự đã tháo gỡ điểm nghẽn, nút thắt lịch sử, tránh được nguy cơ tranh giành quyền lãnh đạo, đồng thời đặt tiền đề thống nhất lực lượng lãnh đạo tối cao, đường lối chính trị tối cao, mục tiêu chính trị tối thượng.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam hội tụ những hạt nhân cho đại đoàn kết toàn dân tộc, gắn bó máu thịt giữa Đảng với quần chúng cách mạng và người dân còn có tinh thần dân tộc. Vũ khí tư tưởng là sức mạnh vô hình, vì nhờ có thứ vũ khí ấy mà người dân yêu nước Việt Nam tự tin, tự lực, tự cường, làm chủ vận mệnh tương lai chính mình và cho dân tộc mình.

Toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam từ ngày 3-2-1930 đến nay được tiến triển đúng quỹ đạo lịch sử do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đặt tiền đề, dựa vào những nhân tố cốt lõi như nền tảng tư tưởng cách mạng, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, nguyên tắc hoạt động của Đảng, đặc biệt là mục tiêu tối thượng của Đảng. Một điểm đáng lưu ý nữa là, trong khi các đảng phái chính trị trên thế giới có xu hướng chia rẽ thành các nhánh, thậm chí hình thành đảng phái đối lập nhau, thì ở Việt Nam lại theo xu hướng hội tụ lực lượng tinh hoa, thống nhất lực lượng, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đủ sức đạp bằng chông gai, vượt qua thách thức thời đại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh hồi tưởng: “Lúc đó chỉ có một nhóm nhỏ con con đồng chí. Số người tuy ít nhưng lòng kiên quyết rất to, nhưng hy vọng chắc chắn rất to. Tuy số người con con nhưng đã tin tưởng Đảng sẽ giải phóng dân tộc và giúp vào cuộc giải phóng thế giới”.

Nhìn lại lịch sử chính trị của Việt Nam hơn 100 năm kể từ khi Nguyễn Tất Thành quyết chí ra đi tìm đường cứu nước đến nay, hoàn toàn có thể khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam là con nòi dân tộc, được một vị Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa lớn của thời đại chuẩn bị điều kiện về hệ tư tưởng, về tổ chức, về hạt giống đỏ, về tầm nhìn chiến lược và sách lược đi trước thời đại.

Sau khi Đảng ra đời, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo, rèn luyện Đảng ta, gắn Đảng ta với phong trào cách mạng trong nước và thế giới, làm cho Đảng ta ngày càng thực sự là giá trị của đạo đức, văn minh. Sau khi mất, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vẫn ngày càng soi rọi cho Đảng ta noi gương, làm theo. Những giá trị văn hóa chính trị cao đẹp của Đảng ta là sự thẩm thấu, phản chiếu giá trị văn hóa tương lai toát lên từ Nguyễn Ái Quốc, được Ôxíp Manđenxtam – nhà báo, nhà thơ Xô Viết dự đoán chính xác hơn 100 năm trước.

Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, chắc chắn những giá trị văn hóa chính trị cao đẹp, thấm đẫm tình người, tình đời của Hồ Chí Minh còn tiếp tục soi rọi lương tri, phẩm giá cán bộ, đảng viên và nhân dân ta trên đường bắt kịp và sánh vai với các cường quốc năm châu.

Trần Viết Lưu // https://hanoimoi.vn/

Bài 1: Bản lĩnh, trí tuệ, đưa dân tộc vào kỷ nguyên mới.

Bài 2: Đảng Cộng sản Việt Nam – Nhân tố quyết định mọi thắng lợi

Bài cuối: Đội tiên phong trước sứ mệnh lịch sử

Views: 2

The post Bài 3: Vai trò lịch sử của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Bài 2: Đảng Cộng sản Việt Nam – Nhân tố quyết định mọi thắng lợi https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/ban-linh-tri-tue-bai-2.html Thu, 16 Jan 2025 07:08:54 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31682 Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

The post Bài 2: Đảng Cộng sản Việt Nam – Nhân tố quyết định mọi thắng lợi appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2025)

BÀI 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH MỌI THẮNG LỢI

Mùa Xuân năm 1930, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.

Đó là kết quả tất yếu của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam; chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam. Thực tiễn thắng lợi của nhân dân ta trong quá trình đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh trong suốt 95 năm qua đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc

Sau khi ra đời, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tin tưởng tuyệt đối, chỉ trong vòng 15 năm, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành 3 cao trào cách mạng: Cao trào cách mạng 1930-1931, với đỉnh cao là phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh, cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939) và cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939-1945); để đến năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Đảng đã lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) vào ngày 2-9-1945.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ cuộc sống của chính mình. Đó cũng là chiến công vĩ đại, là niềm tự hào của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định.

Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ phải đối mặt với giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Trước bối cảnh đó, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, khôn khéo, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại để giữ vững chính quyền non trẻ. Với đường lối chính trị, quân sự, ngoại giao đúng đắn và sáng suốt, Đảng đã động viên được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, củng cố, giữ vững chính quyền cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua tình thế hiểm nghèo và chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược.

Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hưởng ứng “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên, tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ và hy sinh, đánh thắng thực dân Pháp xâm lược với đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954.

Sau Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đế quốc Mỹ vi phạm trắng trợn Hiệp định, âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Thực tế đó đòi hỏi Đảng phải lãnh đạo đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Với đường lối đúng đắn và sự sáng tạo, linh hoạt trong chỉ đạo thực tiễn của Đảng, miền Bắc xã hội chủ nghĩa được xây dựng thành hậu phương vững chắc, là điểm tựa tinh thần cho tiền tuyến miền Nam và kiên cường giáng trả các cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Đồng thời, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30-4-1975.

Lãnh đạo cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành sự nghiệp đổi mới

Lịch sử đã minh chứng, tiến lên chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam đã được đề ra từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Đó là sự lựa chọn đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và nhân dân ta – Sự lựa chọn của chính lịch sử. Kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc khi còn chiến tranh, nghiêm khắc nhìn nhận những sai lầm, khuyết điểm trong thực hiện một số chính sách kinh tế – xã hội những năm đầu sau khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986), với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, đã đề ra Đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đường lối đổi mới ra đời đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, thể hiện bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của đất nước.

Sau Đại hội VI, Đảng đã từng bước hoàn thiện, cụ thể hóa đường lối đổi mới mà nội dung cơ bản, cốt lõi được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện quan trọng của Đảng qua các kỳ Đại hội. Những năm 90 của thế kỷ XX, vượt qua thách thức từ sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã kiên định, tiếp tục vững bước và sáng tạo trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể và đặc điểm của Việt Nam. Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ khóa VI đến khóa XIII đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề cơ bản, hệ trọng của Đảng và sự phát triển của đất nước. Quốc hội thể chế hóa bằng hệ thống pháp luật và các đạo luật, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ và phù hợp cho quá trình đổi mới. Chính phủ cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp cụ thể để quản lý, quản trị, điều hành công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Trong việc xác định, đề ra đường lối đổi mới, Đảng ta luôn luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên lý, quan điểm cơ bản, phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh nghiệm thực tiễn ở trong nước và quốc tế, xử lý tốt các mối quan hệ cơ bản như: Phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân và vì dân”; kết hợp chặt chẽ đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; kết hợp có hiệu quả giữa phát triển kinh tế – xã hội với quốc phòng, an ninh, giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ…, qua đó giành được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Những thành tựu vĩ đại đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên hợp quốc; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực. Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh; hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học – công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao; tham gia đóng góp tích cực duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Có thể nói, những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo tổ chức thực hiện là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.

*

* *

Thực tiễn 95 năm qua khẳng định, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam, để “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[1]. Nói cách khác, những thành tựu to lớn, trong đó có cả những kỳ tích mang tầm thời đại của cách mạng Việt Nam trong suốt 95 năm qua luôn được khởi nguồn và gắn liền với sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là tiền đề vững chắc để chúng ta sẵn sàng bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Ngô Hoàng Nam // https://hanoimoi.vn/

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 2021, tr.25.

Bài 1: Bản lĩnh, trí tuệ, đưa dân tộc vào kỷ nguyên mới.

Bài 3: Vai trò lịch sử của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Bài cuối: Đội tiên phong trước sứ mệnh lịch sử

Views: 3

The post Bài 2: Đảng Cộng sản Việt Nam – Nhân tố quyết định mọi thắng lợi appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/dang-cong-san-viet-nam.html Thu, 16 Jan 2025 03:17:54 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31630 Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

The post Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2025)

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI

Từ ngày ra đời 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sát cánh cùng dân tộc Việt Nam đi qua gần một thế kỷ với 13 kỳ Đại hội, viết nên hành trình tự hào với những dấu mốc lịch sử vẻ vang của đất nước.

Không ngừng đổi mới, sáng tạo và kiên định con đường đã chọn, Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, gặt hái những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

1. Đại hội lần thứ I (1935)

Diễn ra từ ngày 27 đến 31/3/1935, tại Ma Cao, Trung Quốc. Dự Đại hội có 13 đại biểu thuộc các đảng bộ trong nước và tổ chức của Đảng hoạt động ở ngoài nước. Tổng Bí thư do Đại hội bầu: Đồng chí Lê Hồng Phong

Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 13 đồng chí  

Nhiệm vụ chính: Củng cố hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước đến nước ngoài.  

Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị của Đảng; các nghị quyết về vận động công nhân, vận động nông dân, vận động thanh niên, phụ nữ, binh lính, về mặt trận phản đế, về đội tự vệ, về các dân tộc ít người…; Điều lệ của Đảng; Điều lệ của các tổ chức quần chúng của Đảng.  

Đại hội cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Quốc tế Cộng sản.  

Tháng 7/1936, đồng chí Hà Huy Tập được cử làm Tổng Bí thư. 

Tháng 3/1938, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được cử làm Tổng Bí thư. 

Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng lợi căn bản của cuộc đấu tranh gìn giữ và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ trung ương đến cơ sở, thống nhất được phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, tạo điều kiện để phong trào cách mạng bước vào thời kỳ đấu tranh mới.

2. Đại hội lần thứ II (1951)

Diễn ra từ ngày 11 đến 19/2/1951, tại Xã Vinh Quang (nay là xã Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Dự Đại hội có 158 đại biểu.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư.

Đây là lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu hợp thức trong một đại hội có đầy đủ đại biểu toàn quốc.

Số lượng đảng viên trong cả nước: 766.349

Nhiệm vụ chính: đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng là một sự kiện lịch sử trọng đại đánh dấu bước trưởng thành mới về tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng. Đảng ra công khai hoạt động với tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam, có cương lĩnh, đường lối, chính sách đúng đắn phù hợp với thực tiễn của đất nước có ý nghĩa quyết định đưa kháng chiến tiến lên giành những thắng lợi ngày càng lớn.

3. Đại hội lần thứ III (1960)

Diễn ra từ ngày 5 đến 10/9/1960 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết.

Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Nhiệm vụ chính: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam.

Đại hội III đề ra đường lối chung cho cách mạng Việt Nam: đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh; thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

4. Đại hội lần thứ IV (1976)

Thời gian: 14 đến 20/12/1976 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.008 đại biểu thay mặt hơn 1.550.000 đảng viên của 38 đảng bộ tỉnh, thành phố và cơ quan trực thuộc trung ương trong cả nước.

Nhiệm vụ chính: Hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước khôi phục, phát triển đất nước.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Đại hội bầu ra gồm 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị gồm có 14 ủy viên chính thức và 3 ủy viên dự khuyết; đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc; là đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; là đại hội thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.

5. Đại hội lần thứ V (1982)

Thời gian: 27 đến 31/3/1982 tại Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt hơn 1.727.000 đảng viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở. Trong số đại biểu đó có 14 đảng viên đã từng tham gia các tổ chức tiền thân của Đảng.

Từ Đại hội IV đến Đại hội V của Đảng là những năm đầu cả nước bước vào kỷ nguyên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đã thông qua Điều lệ Đảng (sửa đổi) và bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết; đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình tập hợp ý kiến của toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng… nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt, nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một sự chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.

Sau Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đã mở nhiều hội nghị để tiếp tục đi sâu đánh giá tình hình, đề ra nhiều chủ trương và biện pháp cụ thể để chỉ đạo mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước.

6. Đại hội lần thứ VI (1986)

Thời gian: 15 đến 18/12/1986 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng.

Nhiệm vụ chính: Thực hiện đổi mới đất nước (khởi xướng đưa đất nước tiến hành công cuộc đổi mới).

Đại hội quyết định bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Điều lệ Đảng cho phù hợp với tình hình mới và bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa VI, gồm có 124 ủy viên chính thức, 49 ủy viên dự khuyết. Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm có 13 ủy viên chính thức, 1 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm làm Cố vấn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết tiến lên của Đảng ta. Thành công của Đại hội đã mở ra một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam, đưa đất nước bước sang một giai đoạn phát triển mới.

7. Đại hội lần thứ VII (1991)

Thời gian: 24 đến 27/6/1991 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.176 đại biểu đại diện cho hơn 2 triệu đảng viên ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau từ mọi miền của đất nước và đang công tác ở nước ngoài.

Nhiệm vụ chính: Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi mới. Đại hội khẳng định: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắc và có bước đi vững chắc, đó là mệnh lệnh của cuộc sống, là quá trình không thể đảo ngược. 

Với nhiệm vụ “Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi mới”, Đại hội VII lần đầu tiên thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000 do Đại hội thông qua là những văn kiện hết sức quan trọng, vạch ra những quan niệm, phương hướng, nhiệm vụ cơ bản những năm trước mắt cũng như thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đại hội một lần nữa khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm có 146 ủy viên. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

8. Đại hội lần thứ VIII (1996)

Thời gian: 28/6 đến 1/7/1996 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đại biểu thay mặt cho hơn 2 triệu đảng viên cùng các đồng chí cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, các đồng chí đại diện lão thành cách mạng, đại diện các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, các nhân sĩ trí thức tiêu biểu cho trí tuệ, bản lĩnh và sức mạnh đoàn kết của toàn Đảng, toàn dân. Dự Đại hội còn có gần 40 đoàn đại biểu quốc tế đại diện các đảng anh em và bầu bạn trên thế giới.

Chủ đề của Đại hội là: Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Nhiệm vụ chính của Đại hội: Thực hiện đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đã thảo luận và thông qua Điều lệ Đảng (sửa đổi) và bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII gồm có 170 ủy viên chính thức. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII đã bầu Bộ Chính trị gồm 19 ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng là các đồng chí: Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI.

9. Đại hội lần thứ IX (2001)

Thời gian: 19 đến 22/4/2001 tại Hà Nội, với sự tham dự của 1.168 đại biểu đại diện cho 2.479.717 đảng viên trong toàn Đảng và 34 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế.

Nhiệm vụ chính: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại hội chỉ rõ mô hình tổng quát của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.

Đại hội khẳng định phải coi trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đó là nhiệm vụ then chốt, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của Đảng ta, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập khu vực và thế giới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX gồm 150 ủy viên. Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị gồm 15 ủy viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội IX của Đảng là đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới, thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của toàn Đảng, toàn dân trong thời điểm trọng đại của dân tộc, mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

10. Đại hội lần thứ X (2006)

Thời gian: 18 đến 25/4/2006 tại Hà Nội, với sự tham dự của 1.176 đại biểu đại diện cho hơn 3,1 triệu đảng viên trong cả nước.

Chủ đề của Đại hội và cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.

Nhiệm vụ chính: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Đại hội đánh giá sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử; đồng thời nêu bật năm bài học lớn.

Đại hội quyết định mục tiêu tổng quát 5 năm tới là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị-xã hội; sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 160 ủy viên chính thức, 21 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng có ý nghĩa trọng đại, các văn kiện được thông qua tại Đại hội “là kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn dân ta, là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 20 năm đổi mới”. Thành công của Đại hội đánh dấu một mốc son trên chặng đường hơn 76 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng, mở ra một thời kỳ phát triển mới của công cuộc đổi mới.

11. Đại hội lần thứ XI (2011)

Thời gian: 12 đến 19/1/2011 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.377 đại biểu thay mặt hơn 3,6 triệu đảng viên trong cả nước.

Nhiệm vụ chính: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đại hội có nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đề cao tinh thần tự phê bình nghiêm túc, để kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu và yếu kém, khuyết điểm, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X.

Đại hội đã thảo luận sôi nổi, dân chủ và nhất trí thông qua các văn kiện rất quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, lâu dài đối với sự phát triển của đất nước ta: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, phương hướng, nhiệm vụ năm 2011-2015 và Điềulệ Đảng (bổ sung, sửa đổi).

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI gồm 175 ủy viên chính thức, 25 ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng là đại hội mở đường cho đất nước tiến vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, kết quả của một quá trình chuẩn bị công phu, nghiêm túc của Trung ương. Thành công của Đại hội cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tranh thủ thời cơ, đưa đất nước tiếp tục tiến lên.

12.  Đại hội lần thứ XII (2016)

Thời gian: 20 đến 28/1/2016 tại Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.510 đại biểu, đại diện cho hơn 4,5 triệu đảng viên trên cả nước.

Chủ đề của Đại hội cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị là: Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Nhiệm vụ chính: Đẩy mạnh công cuộc đổi mới; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội đánh giá thành tựu và hạn chế sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
Đại hội đã đề ra các nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm tiếp theo, chủ yếu tập trung vào kinh tế, xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Đại hội này cũng là lần đầu tiên Đảng thực hiện Đề án Quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Theo đó công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2021 được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, bài bản, khoa học, thận trọng và thực sự phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, tạo được sự thống nhất cao của các đại biểu dự Đại hội.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 200 đồng chí, trong đó có 180 ủy viên chính thức và 20 ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 19 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được Đại hội tín nhiệm bầu lại làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng có ý nghĩa hết sức trọng đại. Thành công của Đại hội đã tạo tiền đề quan trọng, đưa đất nước tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

13. Đại hội lần thứ XIII (2021)

Thời gian: 25/1 đến 1/2/2021 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.587 đại biểu thay mặt cho hơn 5 triệu đảng viên toàn Đảng.

Chủ đề của Đại hội là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy ý chí và quyết tâm phát triển đất nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Đại hội XIII đã nhận được 298 thư, điện mừng của 149 đảng, 6 tổ chức khu vực và quốc tế, 93 tổ chức hữu nghị, nhân dân, 25 Đoàn ngoại giao, 16 cá nhân từ 92 quốc gia. Đây là Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng nhận được điện, thư chúc mừng nhiều nhất so với các kỳ Đại hội trước, cho thấy tình cảm sâu sắc của bạn bè quốc tế đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; đồng thời, khẳng định vai trò, vị thế, uy tín của Đảng, Nhà nước và dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.

Mục tiêu tổng quát: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu cụ thể đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước là: Nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triến, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá mới gồm 200 đồng chí, trong đó 180 đồng chí Ủy viên chính thức, 20 đồng chí Ủy viên dự khuyết. Tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã họp để bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được tín nhiệm bầu tiếp tục giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.

Nhìn lại chặng đường 95 năm kể từ khi đất nước ta có Đảng, từ một nước nghèo, lạc hậu, Việt Nam đã trở thành một quốc gia năng động với vị thế ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác./.

Thu Hạnh // https://nvsk.vnanet.vn/

Views: 2

The post Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Bản lĩnh, trí tuệ, đưa dân tộc vào kỷ nguyên mới. https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/ban-linh-tri-tue-bai-1.html Wed, 15 Jan 2025 06:55:14 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=31676 Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

The post Bản lĩnh, trí tuệ, đưa dân tộc vào kỷ nguyên mới. appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Nội dung chính trong Thông tin tuyên truyền: Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2025)

BẢN LĨNH, TRÍ TUỆ, ĐƯA DÂN TỘC VÀO KỶ NGUYÊN MỚI

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930 là một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. Thực tế đất nước 95 năm qua đã chứng minh sâu sắc rằng, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhìn lại sự kiện lịch sử cách đây 95 năm và chặng đường đã qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta tự hào và tin tưởng, với bản lĩnh, trí tuệ, uy tín, Đảng sẽ tiếp tục lãnh đạo đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Bài 1: Mốc son chói lọi, bước ngoặt lịch sử vĩ đại

95 năm trước, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một mốc son chói lọi, đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Hiểu rõ và tự hào về Đảng, chúng ta thêm vững tin đi theo ngọn cờ cách mạng của Đảng để xây dựng và phát triển đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

Vững tin đi theo ngọn cờ cách mạng của Đảng để xây dựng và phát triển đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Ảnh: Quang Thái

Từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đến trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, hơn bảy mươi năm liên tục diễn ra các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc hết sức oanh liệt, đầy gian khổ, hy sinh, nhưng tất cả đều bị dìm trong máu, tình hình đen tối như không có đường ra. Lịch sử đã chứng kiến sự thất bại của hệ tư tưởng phong kiến đến sự bất lực của hệ tư tưởng dân chủ tư sản trước nhiệm vụ của lịch sử cứu nước, giải phóng dân tộc. Giai cấp công nhân ra đời nhưng còn ở trình độ “tự phát”, chưa đủ sức lãnh đạo cách mạng.

Tuy nhiên, những cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp trước khi Đảng ta ra đời là cơ sở, điều kiện cần thiết và quan trọng cho sự phát triển về sau của cách mạng Việt Nam. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu, sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ đây, lịch sử chứng kiến sự chuyển giao ngọn cờ giải phóng dân tộc vào tay giai cấp công nhân với đội tiên phong là Đảng Cộng sản. Đó là mốc son chói lọi đánh dấu sự chuyển biến của giai cấp công nhân từ trình độ “tự phát” sang trình độ “tự giác”, tạo ra bước ngoặt trọng đại của lịch sử nước nhà.

Cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối, tổ chức và phương pháp cách mạng kéo dài mấy thập kỷ đã được giải quyết. Từ đây, cách mạng Việt Nam có được sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng chân chính cách mạng, là đạo đức, là văn minh, đảng mácxít lêninnít kiên cường, trí tuệ và bản lĩnh, cùng với thời gian tạo nên những bước đi vững chắc, đủ sức đương đầu và chiến thắng mọi kẻ thù xảo quyệt, lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Đảng ra đời thông qua các văn kiện như Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt được coi là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng mà sợi chỉ đỏ xuyên suốt là giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân, chủ nghĩa xã hội. Bác Hồ khẳng định chủ trương làm tư sản dân quyền cách mang và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.

Sau gần hai phần ba thế kỷ chống kẻ thù là thực dân Pháp, trải qua cuộc khảo nghiệm lịch sử bằng nhiều con đường, khuynh hướng và phong trào cứu nước đầy gian khổ, hy sinh khác nhau, lần đầu tiên Đảng Cộng sản đã định hướng, định hình, khẳng định sứ mệnh lịch sử của mình là tập hợp quần chúng, chuẩn bị cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách tư bản, lật đổ bọn địa chủ và phong kiến, đem lại quyền lợi các mặt cho các tầng lớp nhân dân.

Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuất phát từ thực tiễn Việt Nam – một nước thuộc địa, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng nguyện vọng tha thiết, cháy bỏng của nhân dân, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc, thể hiện bản chất khoa học và cách mạng, tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo, là đường lối cơ bản và xuyên suốt của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Đó là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo, điểm cốt yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đường lối đó khẳng định nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng, đi tới xã hội mới tốt đẹp, phù hợp với nguyện vọng thiết tha của nhân dân ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có công lao to lớn đầu tiên trong việc tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.

Theo Chánh cương vắn tắt của Đảng: Về phương diện xã hội, dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa. Về phương diện chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập; dựng ra Chính phủ công nông binh; tổ chức ra quân đội công nông. Về phương diện kinh tế, thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thu hết sản nghiệp lớn của tụi tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh; thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ. Cùng với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Chương trình tóm tắt của Đảng cũng nhấn mạnh và khẳng định Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản phải thu phục được đại bộ phận giai cấp mình, lãnh đạo dân chúng. Đảng nêu cao và phổ biến khẩu hiệu nước “An Nam độc lập”, “Việt Nam tự do”, đồng thời liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới. Đảng tuyệt đối không đi vào đường lối thỏa hiệp, nhân nhượng một chút lợi ích gì của công nông cho một giai cấp nào khác.

Một cương lĩnh vắn tắt được soạn thảo, ra đời trong thời gian ngắn, vào một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, nhưng chứa đựng nhiều nội dung cốt tủy không chỉ cấp bách, trước mắt lúc bấy giờ trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đấu tranh chống đế quốc, phong kiến, giành độc lập tự do, mà còn có giá trị bền vững lâu dài cho đến hôm nay và mai sau với những điểm mấu chốt của xây dựng xã hội mới, đi tới xã hội cộng sản.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại! Sự vĩ đại của Đảng thể hiện từ sự xuất thân của Đảng, nắm vững ngọn cờ lãnh đạo cách mạng ngay sau khi ra đời. Người chỉ rõ Đảng ta là con nòi, xuất thân từ giai cấp lao động, không bạc nhược đầu hàng như giai cấp phong kiến, không non yếu, tìm cách thỏa hiệp như giai cấp tư sản, không bồng bột, bế tắc về tư tưởng như tầng lớp tiểu tư sản. Ngay vừa ra đời, Đảng liền giương cao ngọn cờ cách mạng dân tộc dân chủ, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong.

Nhờ đường lối đúng đắn, sáng suốt, đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên ngay từ ngày thành lập, Đảng hiên ngang trước phong ba, bão táp, tổ chức và lãnh đạo phong trào quần chúng lớn mạnh xưa nay chưa từng có ở nước ta chống thực dân Pháp, dẫn đến cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, thành lập chính quyền Xô Viết công nông binh, ban bố quyền tự do dân chủ cho nhân dân lao động. Điều đó chứng tỏ rằng chỉ có Đảng của giai cấp công nhân – với lý luận cách mạng tiên phong, kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới, luôn luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, được quần chúng nhân dân ủng hộ – là đội quân tiên phong, dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc, phong kiến, là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với sự lãnh đạo đúng đắn là nhân tố hàng đầu đưa tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 95 năm qua.

Trong không khí mừng vui chuẩn bị đón xuân Ất Tỵ 2025, chúng ta đang được chiêm ngưỡng bức tranh của thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá và con người Việt Nam tràn đầy năng lượng mới, niềm vui mới, nhựa sống mới với khí thế vươn lên, hân hoan mừng kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam – một “pho lịch sử bằng vàng” vô cùng quý báu của Đảng và dân tộc ta. Đất nước chuyển mình đang chuẩn bị hành trang bước vào một giai đoạn phát triển mới – giai đoạn một trăm năm thứ hai dưới sự lãnh đạo của Đảng và một trăm năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong hành trang đó, những yếu tố có trọng lượng nhất là Dân tộc văn hiến và anh hùng, Đảng quang vinh, Tổ quốc giàu đẹp, Bác Hồ vĩ đại, sẽ tạo sức bật mới, mạnh mẽ, tăng tốc, bứt phá, vươn tầm để thực hiện mục tiêu làm cho dân giàu hơn, nước mạnh hơn, hùng cường, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, sải bước cùng thời đại, sánh vai với các cường quốc năm châu, thỏa lòng mong ước của Bác Hồ vĩ đại, muôn vàn kính yêu và ước vọng của toàn dân tộc ta.

Bùi Đình Phong // https://hanoimoi.vn/

Bài 2: Đảng Cộng sản Việt Nam – Nhân tố quyết định mọi thắng lợi

Bài 3: Vai trò lịch sử của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Bài cuối: Đội tiên phong trước sứ mệnh lịch sử

Views: 1

The post Bản lĩnh, trí tuệ, đưa dân tộc vào kỷ nguyên mới. appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>