biến đổi khí hậu; quản lý tài nguyên; bảo vệ môi trường Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/bien-doi-khi-hau-quan-ly-tai-nguyen-bao-ve-moi-truong Cổng Vào Tri Thức Thu, 12 Sep 2024 00:51:04 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/wp-content/uploads/2024/12/cropped-logotvbt-32x32.png biến đổi khí hậu; quản lý tài nguyên; bảo vệ môi trường Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/bien-doi-khi-hau-quan-ly-tai-nguyen-bao-ve-moi-truong 32 32 Bảo vệ rừng – sự sống còn. Bài 4 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/bao-ve-rung-su-song-con-bai-4.html Thu, 12 Sep 2024 00:50:18 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=29388 Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi

The post Bảo vệ rừng – sự sống còn. Bài 4 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường

BÀI 4: LÀM GIÀU TỪ RỪNG

Ngày nay ở nhiều nơi con người đã không bảo vệ tốt rừng, vẫn chặt phá vô tội vạ khiến nguồn tài nguyên rừng chậm được khôi phục và dần bị suy kiệt, nhiều nơi rừng không còn có thể tái sinh, đất trở thành đồi núi hoang, dẫn đến biến đổi khí hậu. Mưa bão, hạn hán, ngập lụt… là những hậu quả do thiên tai gây ra đã và đang diễn biến ngày càng khó lường, kéo theo sự mất mát về con người, tài sản không thể đong đếm của nhân dân.

Trong khi, nếu bảo vệ tốt, rừng không chỉ là những giá trị riêng lẻ mà tích hợp đa tầng giá trị, khi đó cộng đồng người giữ rừng sẽ có không gian việc làm, sinh kế, thu nhập tăng thêm.

Giữ rừng đi đôi với phát triển rừng

“… Quan trọng nhất vẫn là cách nhìn nhận, cách tiếp cận, bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ rừng phải có phương án tạo ra nhiều việc làm, tạo sinh kế lâu dài dưới tán rừng nhằm từng bước cải thiện thu nhập cho người dân để phát triển bền vững” – Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Lê Minh Hoan đã nhấn mạnh như vậy tại một tọa đàm vào tháng 7/2023. Theo đó, hiện nay nước ta đẩy mạnh phát triển đa dụng rừng, hưởng lợi từ rừng.

Một góc rừng mùa khô tại Bình Thuận nhìn từ trên cao.

Cuối năm 2023, Việt Nam đã chuyển giao xong 10,3 triệu tấn CO2 cho Ngân hàng Thế giới, thu về hơn 1.250 tỷ đồng. Đồng thời, xây dựng lộ trình phát triển thị trường carbon trong nước, bao gồm các vấn đề về khung pháp luật, năng lực và cơ sở hạ tầng thương mại tín chỉ carbon. Thị trường carbon phát triển mở ra cơ hội tạo nguồn lực tài chính bổ sung cho lâm nghiệp thông qua các cơ chế trao đổi, mua bán tín chỉ carbon.

Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận Nguyễn Hoài Anh (ngồi giữa) cùng lãnh đạo Sở Nông nghiệp và PTNT trong một chuyến thăm, nắm bắt tình hình quản lý rừng tại BQL RPH Lê Hồng Phong (thời điểm giữ vai trò là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy).
Lãnh đạo tỉnh quan tâm đến đời sống của lực lượng bảo vệ rừng.

Những hướng đi này, ngay tại Bình Thuận những năm gần đây đã và đang được phát huy hiệu quả. Với diện tích rừng tự nhiên tương đối lớn (gần 297.000 ha), thời gian qua, tỉnh đã triển khai các chương trình, dự án bảo tồn, nâng cao trữ lượng carbon và quản lý bền vững tài nguyên rừng, phát triển tín chỉ carbon. Từ đó đã đạt được một số kết quả nhất định thông qua Chương trình UN-REDD giai đoạn II – Chương trình hợp tác Liên Hợp Quốc về phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng (REDD+) ở các nước phát triển.

Lực lượng bảo vệ rừng tại Hàm Thuận Nam.

Về phía UBND tỉnh, theo kế hoạch triển khai Nghị quyết số 29/NQ -CP ngày 8/3/2024 của Chính phủ, tỉnh nhấn mạnh đến phát triển kinh tế lâm nghiệp, trong đó đẩy mạnh phát triển kinh tế dưới tán rừng như du lịch sinh thái, phát triển lâm sản ngoài gỗ, tập trung vào các nhóm sản phẩm có thế mạnh như dược liệu, thực phẩm. Cùng với đó, đẩy mạnh thực hiện các chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng và dịch vụ hấp thụ, lưu giữ carbon và phát triển nhanh thị trường tín chỉ carbon rừng.

Bình Thuận tổ chức hội thảo về “tín chỉ carbon rừng- cơ hội và thách thức” trong năm 2024.

Đồng thời khẳng định, việc tham gia mua bán tín chỉ carbon sẽ mang lại nguồn kinh phí cho tỉnh để tiếp tục đầu tư vào công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Góp phần nâng cao đời sống, kinh tế cho các hộ đồng bào dân tộc nói riêng, các hộ sống trong và ven rừng nói chung, chia sẻ, giảm áp lực kinh phí đầu tư của địa phương trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. UBND tỉnh cũng giao Sở Nông nghiệp và PTNT tập trung xây dưng Đề án phát triển vùng nguyên liệu gỗ và chế biến bền vững trên địa bàn tỉnh. Thực hiện có hiệu quả đề án “Trồng 1 tỷ cây xanh giai đoạn 2021 – 2025” trên địa bàn tỉnh. Phấn đấu toàn tỉnh trồng hơn 2 triệu cây xanh, gồm trồng mới rừng sản xuất 133.000 cây và trồng cây xanh phân tán 1,92 triệu cây.

Ông Trương Đình Sỹ (ngồi)- Phó Chi cục trưởng chi cục Kiểm lâm tỉnh trực tiếp đánh giá mô hình trồng dược liệu dưới tán rừng.

Ngoài ra, theo định hướng phát triển khai thác các loài cây dược liệu bản địa, từ năm 2023, Chi cục Kiểm lâm tỉnh xây dựng các mô hình trồng cây dược liệu dưới tán rừng đối với các loài cây có giá trị cao, có thị trường tiêu thụ. Đó là mô hình nấm lim xanh, sâm bố chính, khoai mài, trà hoa vàng dưới tán rừng tự nhiên thuộc lâm phận các BQLRPH Phan Điền, Sông Móng – Ca Pét, Đức Linh và BQL Khu BTTN Tà Cú. Qua đó, góp phần cơ cấu lại sản xuất trên lĩnh vực lâm nghiệp phù hợp với lợi thế, nhu cầu thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu theo tinh thần Nghị quyết số 05 của Tỉnh ủy Bình Thuận…

Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh Tiêu Hồng Phúc, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Võ Thanh Bình và một số sở ngành, Đoàn thanh niên ký kết tại chương trình “Triệu cây xanh – vì một Việt Nam xanh”.

Trách nhiệm của toàn xã hội

Cần khẳng định dứt khoát, yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến khí hậu đó là rừng, quyết định sự sống còn của môi trường, sinh thái. Vai trò của rừng đối với công tác bảo vệ môi trường đang trở thành chủ đề thời sự và cần sự chung tay của cả nhân loại.

Chính phủ, các bộ, ngành đã tập trung hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi bổ sung Nghị định 156 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp, dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 01/2019 về kiểm lâm và lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng, dự thảo nghị định về một số chính sách đầu tư trong lâm nghiệp để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các địa phương. Đồng thời đề nghị các địa phương cần quan tâm, chăm lo hơn nữa cho lực lượng chuyên trách quản lý bảo vệ rừng. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào tuần tra, kiểm soát, theo dõi diễn biến của rừng để nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ rừng, giảm áp lực cho lực lượng chuyên trách…

Lãnh đạo HĐND tỉnh tham cùng các lực lượng tham gia hoạt động trồng rừng.

Thời điểm loạt bài viết này lên trang, cũng là những ngày tỉnh miền núi Cao Bằng đang phải hứng chịu cơn lũ lịch sử kể từ sau năm 1986. Truyền thông đưa tin những hình ảnh dòng nước sông đang cuồn cuộn chảy xiết, gây ngập, hư hại biết bao tài sản, ảnh hưởng nặng nề đến đời sống nhân dân. Tại Bình Thuận, một tỉnh khô hạn nhất nhì cả nước cũng đang chịu thiệt hại từ những cơn mưa lớn, sạt lở, lốc xoáy gây thiệt hại về người, tài sản của dân, nhất là vào mùa mưa. Nhiều người đặt câu hỏi: Thiên tai hay nhân tai?

Rõ ràng, khi các quốc gia đều phấn đấu phát triển kinh tế nhanh, đã đặt áp lực lên khai thác tài nguyên thiên nhiên môi trường, sẽ làm thay đổi quy luật tự nhiên… Hậu quả mà biến đổi khí hậu gây ra cho hành tinh ngày càng rõ rệt, nổi rõ là hạn hán, khan hiếm nước, cháy rừng nghiêm trọng, nước biển dâng, lũ lụt và suy giảm đa dạng sinh học… Nguồn khí thải gây biến đổi khí hậu đến từ khắp mọi nơi trên thế giới và ảnh hưởng đến tất cả mọi người. Do đó, cuộc chiến chống biến đổi khí hậu cần sự chung tay của tất cả nhân loại. Điều này đồng nghĩa với hành động giữ rừng là sự sống còn để bảo vệ “lá phổi xanh” của trái đất, là nguồn sống của con người. Với Việt Nam, Đảng, Nhà nước và chính quyền các địa phương đã, đang và sẽ khắc phục khó khăn, hạn chế, không ngừng nỗ lực có các giải pháp để cải thiện thu nhập của lực lượng giữ rừng, tạo sinh kế, làm giàu từ rừng để bảo vệ rừng tốt nhất. Đảng ta xác định: Bảo vệ, phát triển rừng vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Bảo vệ rừng – Giữ rừng – Đồng thời với phát triển rừng là nhiệm vụ cao cả của mọi công dân, là sự sống còn của mọi người, mọi nhà, của đất nước và dân tộc !

Được biết, tín chỉ carbon là thuật ngữ chung cho tín chỉ có thể kinh doanh hoặc giấy phép đại diện cho 1 tấn CO2 hoặc khối lượng của khí nhà kính khác tương đương với 1 tấn CO2. Việc mua bán sự phát thải khí CO2 hay mua bán carbon trên thị trường được thực hiện thông qua tín chỉ.

Bài 1: Sống chết giữ lấy rừng

Bài 2: Tháo nút thắt, bứt phá bảo vệ rừng

Bài 3: Quyết liệt các giải pháp

Kiều Hằng // https://baobinhthuan.com.vn

Views: 9

The post Bảo vệ rừng – sự sống còn. Bài 4 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Bảo vệ rừng – sự sống còn. Bài 3 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/bao-ve-rung-su-song-con-bai-3.html Thu, 12 Sep 2024 00:33:05 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=29381 Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi

The post Bảo vệ rừng – sự sống còn. Bài 3 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường

BÀI 3: QUYẾT LIỆT CÁC GIẢI PHÁP

Tiếp tục sắp xếp tổ chức, bộ máy, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý về lâm nghiệp, nhất là lực lượng được giao nhiệm vụ trực tiếp, các địa phương có diện tích rừng lớn đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Cùng với đó, bảo đảm điều kiện cần thiết cho hoạt động của kiểm lâm, lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách; có chính sách đặc thù để thu hút cán bộ làm công tác lâm nghiệp. Đây chính là một trong số các yêu cầu của Ban Bí thư Trung ương Đảng đến các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền cần tập trung để đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 13 – CT/TW.

Trách nhiệm cán bộ, khâu then chốt

Từ những nút thắt, hạn chế, tồn tại trong công tác quản lý, bảo vệ rừng thời gian qua, các cấp từ Trung ương đến địa phương đã đề ra các giải pháp quyết liệt để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, về vai trò, tầm quan trọng của rừng.

Gắn biển báo cấm tại Khu BTTN Tà Cú.

Tại Bình Thuận, Khu bảo tồn thiên nhiên Tà Kóu (BTTN Tà Cú) nằm ở phía nam huyện Hàm Thuận Nam, có tổng diện tích đất rừng và đất lâm nghiệp 10. 447,62 ha. Thời gian qua được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của chi bộ, chính quyền, sự phối hợp của các tổ chức đoàn thể… công tác quản lý bảo vệ rừng đang được chú trọng. Trong đó mục tiêu bảo vệ tốt toàn bộ diện tích đất rừng hiện có, kiểm soát, ngăn chặn tiến tới chấm dứt về cơ bản các hoạt động xâm hại, làm giảm tài nguyên rừng và đa dạng sinh học. Hướng tới đơn vị đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục sâu rộng về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học. Mục đích nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, cộng đồng dân cư.

Với Mỹ Thạnh, một xã thuần đồng bào dân tộc thiểu số của huyện Hàm Thuận Nam hiện có 2 đơn vị chủ rừng là BQL rừng Sông Móng – Ka Pét và BQL Khu BTTN Núi Ông, trong đó có 137 hộ nhận khoán bảo vệ rừng. Xác định trách nhiệm của cán bộ là khâu then chốt trong hoạt động quản lý, bảo vệ rừng, những năm qua Đảng ủy, UBND xã đã triển khai thực hiện tốt tuyên truyền, vận động để nâng cao nhận thức, hiểu biết của người dân về tầm quan trọng và những giá trị mang lại từ rừng, cũng như các hành vi vi phạm mà pháp luật nghiêm cấm đã được nêu trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng.

Phó Bí thư Tỉnh ủy – Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận Đoàn Anh Dũng (đứng giữa) trong chuyến kiểm tra thực tế rừng ở Hàm Thuận Nam vào tháng 4/2024.

Theo đánh giá của UBND xã Mỹ Thạnh, trong 5 năm qua, công tác quản lý bảo vệ rừng tại địa phương tương đối ổn định, không xảy ra điểm nóng phức tạp. Bên cạnh, nhận thức của nhân dân và trách nhiệm của các hộ nhận khoán được nâng lên rõ rệt…

Nhiệm vụ quan trọng về quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng cũng được Phó Bí thư Tỉnh ủy – Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận Đoàn Anh Dũng nhấn mạnh trong chuyến kiểm tra thực tế tại Hàm Thuận Nam vào tháng 4/2024. Theo đó, lãnh đạo tỉnh yêu cầu địa phương phải xem đây là nhiệm vụ quan trọng, cần củng cố phương án, lập bản đồ phòng cháy chữa cháy. UBND huyện Hàm Thuận Nam và các ngành chức năng có liên quan phải xác định cụ thể các vùng trọng điểm theo cấp dự báo cháy rừng; triển khai kịp thời các giải pháp phòng chống cháy rừng với mục tiêu phòng là chính. Cùng với đó, thường xuyên tuần tra, kiểm soát các khu vực có nguy cơ cháy cao, theo dõi và thông báo kịp thời cấp dự báo cháy rừng trên địa bàn huyện…

Quyết tâm bám giữ rừng, không lơ là.

Giữ rừng, trách nhiệm và quyền lợi của người dân

Ông Nguyễn Văn Thuận (SN 1958) là người dân tại xã Hồng Phong, huyện Bắc Bình. Ông là một trong số nhiều hộ dân nhận khoán BVR tại BQL RPH Lê Hồng Phong từ năm 2010 đến nay với diện tích 80 ha. Ông Thuận cho biết, dù biết làm nghề này rất vất vả, nguy hiểm, nhưng vì cuộc sống mưu sinh và tình yêu rừng, trách nhiệm bảo vệ rừng quê hương, bản thân cùng anh em trong trạm vẫn quyết tâm bám giữ rừng, không lơ là.

Các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nhận khoán bảo vệ rừng ở huyện Bắc Bình.

Cá nhân ông Thuận là một đơn cử cho người dân Bình Thuận được hưởng lợi và gắn trách nhiệm của mình trong công tác bảo vệ rừng. Về phía Đảng, Nhà nước, giải pháp quyết liệt liên quan đến bảo vệ rừng cũng được thể hiện rõ nét. Đó là vào ngày 8/3/2024, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đã ký Nghị quyết ban hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 61-KL/TW của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 13/TW ngày 12/7/2017 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Một trong những mục đích đặt ra là khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng thời gian qua, đảm bảo thực hiện đạt mục tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, trong đó có lĩnh vực lâm nghiệp. Đồng thời góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện sinh kế, bảo vệ môi trường sinh thái để phát triển bền vững…

Chính phủ yêu cầu xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các ngành, các cấp chính quyền, người đứng đầu các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp và thủ trưởng các cơ quan, đơn vị đối với công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững. Trong đó, các nhiệm vụ, giải pháp đề ra là đổi mới, đa dạng hóa, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững. Có chính sách bảo đảm hài hòa giữa trách nhiệm và quyền lợi của chủ rừng được Nhà nước giao rừng. Tạo động lực thu hút sự tham gia của người dân, huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho hoạt động quản lý, bảo vệ, phát triển rừng, phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững; chính sách khoanh nuôi, bảo vệ, phát triển rừng phải gắn với ổn định, nâng cao đời sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số và người dân ở khu vực có rừng; tăng định mức bảo vệ rừng và mức khoán bảo vệ rừng để phù hợp với thực tế. Cùng với đó, xây dựng cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm điều kiện cần thiết cho hoạt động của kiểm lâm, lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách; chính sách đặc thù để thu hút, giữ chân người lao động làm việc trong ngành lâm nghiệp…

Về phía Bình Thuận, để thực hiện quyết liệt các giải pháp bảo vệ rừng, ngày 26/4/2024, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Hồng Hải đã ký ban hành Chỉ thị số 04/CT-UBND tỉnh về việc tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng và đất rừng trên địa bàn tỉnh. Trong đó, đề nghị các địa phương chỉ đạo chính quyền cấp xã nâng cao vai trò trách nhiệm, thực hiện nghiêm túc các quy định của Nhà nước về công tác quản lý, bảo vệ rừng và đất rừng. Song song rà soát, thống kê toàn bộ diện tích bị lấn, chiếm, sử dụng đất rừng trái mục đích để xử lý theo quy định…

Theo Bộ Nông nghiệp và PTNT, năm 2023 trên toàn quốc, các cơ quan chức năng đã phát hiện 3.327 vụ vi phạm ảnh hưởng đến rừng, giảm 5.790 vụ so với năm 2022. Diện tích rừng bị tác động là hơn 1.000 ha. Trong 4 tháng đầu năm 2024, cả nước phát hiện 650 vụ phá rừng, diện tích bị tác động là 182,2 ha, giảm 75,7 ha so với năm 2023. Tuy nhiên, có 10 vụ chống người thi hành công vụ, làm 13 người bị thương và tử vong. Riêng tại Bình Thuận, năm 2023 lực lượng quản lý BVR đã phát hiện, lập hồ sơ xử lý vi phạm Luật Lâm nghiệp 289 vụ; đã xử lý vi phạm hành chính 217 vụ, lâm sản tịch thu 194,43m3 gỗ các loại. Trong nửa đầu năm 2024, toàn tỉnh đã phát hiện, lập hồ sơ xử lý 136 vụ vi phạm Luật Lâm nghiệp, tịch thu 105,66 m3 gỗ các loại, 115,7 kg động vật rừng; có 13 vụ lấn, chiếm đất rừng với diện tích 2,61 ha…

Bài 1: Sống chết giữ lấy rừng

Bài 2: Tháo nút thắt, bứt phá bảo vệ rừng

Bài 4: Làm giàu từ rừng

Kiều Hằng // https://baobinhthuan.com.vn

Views: 5

The post Bảo vệ rừng – sự sống còn. Bài 3 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Bảo vệ rừng – sự sống còn. Bài 2 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/bao-ve-rung-su-song-con-bai-2.html Wed, 11 Sep 2024 01:04:55 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=29375 Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi

The post Bảo vệ rừng – sự sống còn. Bài 2 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường

BÀI 2: THÁO NÚT THẮT, BỨT PHÁ BẢO VỆ RỪNG

Tập trung khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, đảm bảo thực hiện đạt mục tiêu giữ ổn định tỷ lệ và nâng cao chất lượng độ che phủ rừng đạt 43% theo Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020 – 2025. Đồng thời góp phần tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện sinh kế, bảo vệ môi trường sinh thái để phát triển bền vững. Đây là một trong những mục đích đặt ra của UBND tỉnh để thực hiện Kết luận số 61 – KL/TW và các nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động của Trung ương thời gian qua.

Nghề bảo vệ rừng – áp lực và không đủ sống

Ban Cán sự UBND tỉnh Bình Thuận đã nhìn nhận những tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực lâm nghiệp trong sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết 05 -NQ/TU ngày 10/9/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XIV). Trong đó đề cập đến nút thắt chưa được giải quyết hiện nay, đó là lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách (BVRCT) ở các đơn vị chủ rừng thời gian qua chính là lực lượng nòng cốt, tuyến đầu, trực tiếp bám rừng, ăn, ngủ với rừng, làm nhiệm vụ tuần tra, quản lý BVR. Đây cũng là đội ngũ đương đầu, đấu tranh, trấn áp các đối tượng vi phạm về khai thác, vận chuyển lâm sản, phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp, đất rừng. Tuy nhiên, thực trạng kiểm lâm viên, lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng xin nghỉ việc hay bỏ việc, chuyển công tác ngày càng phổ biến. Thực tế này diễn ra không phải bây giờ mà đã xảy ra từ mấy năm trước. Phải chăng, nguyên nhân chính của họ là áp lực và không đủ sống từ nghề giữ rừng?

Lực lượng bảo vệ rừng của BQL RPH Lê Hồng Phong.

Để hiểu thêm về những người giữ rừng, chúng tôi có mặt tại BQL RPH Lê Hồng Phong (Bắc Bình). Đây được xem là địa bàn khô hạn, rộng lớn, với diễn biến phức tạp về tình trạng lấn chiếm đất rừng, nên gánh nặng trách nhiệm đối với những người trực tiếp giữ rừng lại càng tăng gấp bội. Ông Lê Châu Thành – Trưởng BQL RPH Lê Hồng Phong là người thấu hiểu được sự vất vả của anh em bảo vệ rừng trên địa bàn, chia sẻ: Ban đang quản lý trên 15.300 ha rừng, gồm 23 tiểu khu. Vùng quản lý hầu hết là rừng phòng hộ, địa hình đi lại khó khăn, dù không có diện tích rừng giáp với tỉnh bạn, nhưng lại là địa bàn diễn biến phức tạp về nạn lấn chiếm đất rừng. Đây là những nơi giáp ranh có nhiều đặc điểm phức tạp, bao gồm các địa phương giáp khu dân cư, rẫy của dân, giáp biển.

Trạm BVR đơn sơ, thiếu thốn.

Đáng chú ý, lực lượng BVRCT phải làm việc gần như 24/24. Trong đó mỗi một lực lượng BVRCT phải “gánh” trên vai từ 500 – 700 ha rừng, nên cho dù ngày nghỉ theo chế độ mà ngày hôm sau phát hiện để xảy ra mất rừng thì nguy cơ đối diện với trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, khi phát hiện vụ việc, không phát hiện đối tượng thì cũng phải chịu trách nhiệm bị khởi tố vụ án.

Trong câu chuyện kể dở dang của chúng tôi, ông Nguyễn Tiến Công – Trạm trưởng Trạm Bảo vệ rừng Lê Hồng Phong tranh thủ giờ nghỉ ít ỏi sau chuyến tuần tra rừng chia sẻ thêm: Do địa bàn rộng, lực lượng mỏng nên gặp khó khăn trong quản lý. Ngoài ra, công cụ hỗ trợ phục vụ cho các trạm chỉ có dụng cụ thô sơ, nên khi gặp đối tượng manh động rất nguy hiểm. Quá trình công tác gặp nhiều trường hợp manh động, chống đối. Ông Công chứng minh: Cách đây hơn một năm, trong ca trực ban đêm, bản thân ông bị một số đối tượng ngoài địa phương chống trả, bị thương.

Đó là chưa kể do địa hình rừng núi nên việc đi lại bằng xe rất khó khăn, chủ yếu đi bộ. Việc sinh hoạt, ăn ở của lực lượng BVRCT cũng hết sức thiếu thốn, các chốt bảo vệ rừng không có điện, nước, sóng điện thoại và khoảng cách đường đi lại để mua lương thực, thuốc men từ trạm đến khu dân cư xa xôi, bất tiện…

Phút nghỉ ngơi giữa rừng của lực lượng BVR.

Nút thắt

Từ thực tiễn quá trình triển khai công tác quản lý bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng năm 2023 và những tháng đầu năm 2024, UBND tỉnh Bình Thuận cho rằng: Hiện nay, một số chính sách bảo vệ, phát triển rừng và đầu tư hỗ trợ kết cấu hạ tầng về lâm nghiệp được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 38/2016/QĐ-TTg ngày 14/9/2016 đã không còn phù hợp với Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số 523/QĐ-TTg ngày 1/4/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Đơn cử như theo quy định mức khoán hỗ trợ đầu tư phát triển rừng như, đơn giá hiện nay là 300.000 đồng/ha, mỗi hộ gia đình được nhận khoán không quá 30 ha, thì 1 năm, mỗi hộ chỉ được 9 triệu đồng, không bảo đảm thu nhập của người dân nhận khoán bảo vệ rừng. Đề nghị Chính phủ xem xét sớm ban hành “Nghị định về chính sách đầu tư bảo vệ và phát triển rừng, chế biến và thương mại lâm sản” để các chính sách đầu tư và phát triển rừng được toàn diện, thống nhất; trong đó ưu tiên bố trí nguồn lực từ Trung ương hỗ trợ cho các thành phần tham gia trồng, bảo vệ và phát triển rừng đặc biệt tại các khu vực miền núi.

Một góc rừng của Bình Thuận.

Theo UBND tỉnh, vai trò của lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách đặc biệt quan trọng. Đây là những người trực tiếp bám cơ sở, bám rừng để triển khai các kế hoạch; trực tiếp tuần tra, kiểm soát bảo vệ rừng; ngăn chặn đối tượng xâm nhập rừng trái phép; chủ động các phương án phòng cháy, chữa cháy rừng. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định số 01/2019/NĐ-CP ngày 1/1/2019 của Chính phủ chỉ cơ bản được hưởng lương mà chưa có thêm các chế độ hỗ trợ thật phù hợp với đặc thù công việc đã ảnh hưởng lớn đến tâm lý, tinh thần công tác của lực lượng này. Trong khi đó tình hình hoạt động của lâm tặc ngày càng diễn biến phức tạp. Các đối tượng xâm hại rừng có hành vi manh động, táo bạo, có thể dùng hung khí, súng tự chế để chống trả gây thương tích cho lực lượng tuần tra, kiểm soát bảo vệ rừng để tẩu tán lâm sản. Do vậy bên cạnh các giải pháp bảo vệ rừng đang triển khai, đề nghị Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo xây dựng chế độ, chính sách đặc thù cho lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng đảm bảo thu nhập. Từ đó, chắc chắn sẽ tạo động lực, sự yên tâm trong công việc bảo vệ rừng, để những công sức, sự hy sinh của họ được bù đắp xứng đáng.

Như đánh giá của Ban Bí thư Trung ương Đảng tại Kết luận số 61 – KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 13 – CT/TW, ngày 12/1/2017 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ rừng: Sau hơn 6 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 13 – CT/TW, nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, cấp ủy, đảng viên và nhân dân về quản lý, bảo vệ, phát triển rừng đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, kết quả thực hiện Chỉ thị còn hạn chế. Trong đó, đánh giá nhấn mạnh chính sách giao đất, giao rừng, hỗ trợ khoán bảo vệ rừng chưa phù hợp với lợi ích chính đáng của người được giao, nhận khoán. Đời sống người làm nghề rừng, người dân ở khu vực có rừng còn nhiều khó khăn… Theo Ban Bí thư Trung ương Đảng, những hạn chế nêu trên chủ yếu do nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng của rừng và phát triển lâm nghiệp bền vững chưa đầy đủ. Một số cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền thiếu quyết liệt, chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm Chỉ thị.

Được biết liên quan đến các chính sách về lâm nghiệp, ngày 24/5/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 58/2024/NĐ -CP về một số chính sách đầu tư trong lâm nghiệp. Trong đó tại khoản 3 Điều 19 về mức kinh phí khoán bảo vệ rừng: Mức kinh phí khoán bảo vệ rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên từ ngân sách nhà nước bình quân 500.000 đồng/ha/năm. Đối với diện tích rừng thuộc xã khu vực II, III bằng 1,2 lần mức bình quân, vùng đất ven biển bằng 1,5 lần mức bình quân. Như vậy, mức tăng từ 300.000 đồng/ ha/năm lên 500.000 đồng/ha/năm khi được áp dụng thực tế sẽ góp phần tăng thu nhập của lực lượng giữ rừng.

Theo Sở Nông nghiệp và PTNT, tổng số lực lượng BVRCT được giao hiện nay 527 người. Tổng số lực lượng BVRCT đã được tuyển dụng, đang hoạt động 464 người, còn thiếu chưa tuyển dụng được 63 người. Trong khi đó, theo báo cáo các đơn vị chủ rừng, tình hình xin nghỉ việc của lực lượng BVRCT vẫn còn tiếp tục diễn ra, song việc tuyển dụng mới gặp nhiều khó khăn do không có người tham gia vì áp lực công việc cao nhưng thu nhập thấp.

Bài 1: Sống chết giữ lấy rừng

Bài 3: Quyết liệt các giải pháp

Bài 4: Làm giàu từ rừng

Kiều Hằng // https://baobinhthuan.com.vn

Views: 11

The post Bảo vệ rừng – sự sống còn. Bài 2 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Bảo vệ rừng – sự sống còn. Bài 1 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/bao-ve-rung-su-song-con-bai-1.html Wed, 11 Sep 2024 00:56:39 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=29353 Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi

The post Bảo vệ rừng – sự sống còn. Bài 1 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường

BẢO VỆ RỪNG – SỰ SỐNG CÒN. BÀI 1

“Rừng vàng, biển bạc”. Xác định bảo vệ rừng là chiến lược, sự sống còn của đất nước, dân tộc. Để mất rừng là mất tất cả. Rừng là tài nguyên, nguồn lực to lớn của đất nước, là tư liệu sản xuất quan trọng, có khả năng tái tạo, yếu tố quan trọng của môi trường sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học. Qua đó, góp phần giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh nguồn nước, quốc phòng, an ninh.

Bảo vệ, phát triển rừng vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Những năm qua, Đảng, Chính phủ và các địa phương trong cả nước đã có các Nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động… liên quan đến công tác quản lý, bảo vệ rừng. Trong đó, nhấn mạnh đến giải pháp phát triển kinh tế lâm nghiệp, có cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm điều kiện cần thiết cho hoạt động của kiểm lâm, lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách, chính sách đặc thù để thu hút, giữ chân người lao động làm việc trong ngành lâm nghiệp… Chuyện giữ rừng, phát triển rừng và sinh kế từ rừng tại Bình Thuận là một thực tế.

Bài 1: Sống chết giữ lấy rừng

Bảo vệ và phát triển bền vững diện tích rừng hiện có của tỉnh. Đồng thời triển khai tốt các giải pháp ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi xâm hại tài nguyên rừng, lấn chiếm đất rừng… Đó là một trong những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu đã được Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Thuận (khóa XIV) đề ra tại Nghị quyết số 05 -NQ/TU ngày 10/9/2021 về phát triển ngành nông nghiệp hiện đại, bền vững, có giá trị gia tăng cao. Thực hiện nghiêm các chỉ đạo quyết liệt từ Trung ương đến địa phương, những người trực tiếp giữ rừng, bằng trách nhiệm, tình yêu với rừng đã không ngại khó khăn, hiểm nguy sống chết giữ lấy rừng quê hương…

Lực lượng BVR 143, thuộc BQLRPH Đức Linh tuần tra bảo vệ rừng.

Bám rừng ở vùng giáp ranh

Chúng tôi có mặt ở vùng đất được ví là nơi “gà cất tiếng gáy 3 tỉnh nghe”. Đó là khu rừng ở tiểu khu 418, xã Đa Kai, thuộc lâm phần Ban quản lý rừng phòng hộ Đức Linh (BQL RPH). Nơi đây giáp ranh với địa phận tỉnh Lâm Đồng, nên tôi dễ dàng cảm nhận được không khí mát mẻ, trong lành và màu xanh mướt của vùng rừng “vàng” tự nhiên. Tôi ngồi sau chiếc xe máy cà tàng chuyên đi rừng của anh Nguyễn Trường Bảy – Trạm trưởng Trạm Bảo vệ rừng (BVR) 143, thuộc BQLRPH Đức Linh, có chút lo lắng vì đường lên rừng cheo leo, cao vút. Anh Bảy vừa trấn an tôi, vừa chia sẻ công việc hàng ngày của anh em trong trạm: Do đặc điểm khí hậu và rừng lá thường xanh, nên đất dưới tán rừng ở đây vẫn giữ được độ ẩm hơn các vùng rừng khác, hạn chế nguy cơ cháy do khô hanh. Tuy nhiên, ở đây cũng có vùng rừng hỗn giao tre, lá, thực bì nhiều nên lực lượng BVR phải thường xuyên phát dọn rất vất vả. Anh Bảy cho biết, vùng rừng này thuộc địa bàn thôn 11, xã Đa Kai. Trạm được giao quản lý, bảo vệ trên 1.000 ha, trong đó có khoảng 3 km rừng giáp ranh với tỉnh Lâm Đồng, nên công tác quản lý càng phải thắt chặt, khó khăn hơn. Hiện nay, ngoài 3 nhân viên của trạm, còn có 15 hộ nhận khoán nên phần nào giảm bớt áp lực công việc. Mỗi tuần mỗi người được nghỉ 2 ngày thay phiên.

Cùng có mặt ở điểm rừng đã hẹn, ông Đinh Hoàng – Trưởng BQLRPH Đức Linh chỉ tay về vùng rừng phía trước, chia sẻ thêm: Đơn vị được giao quản lý diện tích rừng và đất lâm nghiệp với trên 6.000 ha, bao gồm 14 tiểu khu, phân bố trên địa bàn 3 xã Mê Pu, Sùng Nhơn và Đa Kai. Với đặc điểm giáp ranh với xã Đạp Loa, xã Hà Lâm – huyện Đạ Huoai của tỉnh Lâm Đồng. Mặt khác, địa hình phần lớn đều nằm trên vị trí đồi núi hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, nhiều khu vực không có sóng điện thoại, việc thông tin liên lạc thực hiện phối hợp truy quét bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy (PCCCR) gặp khó khăn.

Trưởng BQLRPH Đức Linh cùng lực lượng bảo vệ rừng của đơn vị một buổi ăn trưa trong rừng.

Trong khi đó, điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị công nghệ thông tin phục vụ công tác kỹ thuật – bảo vệ rừng và PCCC còn thiếu. Cộng thêm nhận thức về bảo vệ rừng, PCCC của một số hộ dân sinh sống ven rừng, gần rừng còn hạn chế. Một số diện tích đất lâm nghiệp bị chiếm trái phép sau khi thực hiện hủy bỏ cây trồng vẫn bị người dân tái chiếm sử dụng…

Cùng với những khó khăn, vất vả ấy, ông Hoàng cho biết, từ đầu năm 2024 đến nay, tình hình thời tiết diễn biến phức tạp, nắng nóng kéo dài và gay gắt hơn những năm trước, làm cho nguy cơ cháy rừng rất cao. Cũng vào thời điểm này, trong rừng cây ươi ra trái, người dân vào rừng chặt cây để thu hái hạt ươi, tạo áp lực lớn cho lực lượng bảo vệ rừng. Người trực tiếp giữ rừng còn thiếu so với quyết định giao chỉ tiêu.

Một góc rừng Bình Thuận.

Trách nhiệm làm chủ

Tài nguyên rừng của cả nước nói chung và Bình Thuận nói riêng có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong đời sống và ảnh hưởng tới tất cả mọi mặt, từ môi trường, sinh thái, sản xuất, kinh tế, xã hội của tỉnh. Bình Thuận có tỷ lệ che phủ rừng chiếm 43,02% diện tích tự nhiên, cao hơn mức bình quân của cả nước (42,02%), có thảm thực vật đa dạng.

Lao động nghề rừng.

Đặc biệt, rừng sản xuất trên địa bàn tỉnh có trữ lượng gỗ rừng sản xuất chiếm 39,51% tổng trữ lượng toàn tỉnh, lớn hơn nhiều tỉnh đồng bằng ven biển khác ở khu vực miền Trung. Trong đó, rừng sản xuất là bộ phận rừng mang lại giá trị cao về môi trường, điều hòa không khí trong lành, điều tiết lượng nước, phòng chống thiên tai lũ lụt, xói mòn và sạt lở đất, làm tăng độ phì nhiêu, bồi dưỡng tiềm năng của đất. Về kinh tế, rừng sản xuất là tiềm năng, cơ hội để ngành gỗ của tỉnh có thể mở rộng, thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh và xuất khẩu. Đồng thời, rừng trồng sản xuất cũng tạo cơ hội cho nhiều hộ gia đình được giao đất trồng rừng và khoanh nuôi bảo vệ rừng, do đó đã tạo ra sinh kế và nhiều việc làm cho hộ gia đình và người dân ở nông thôn, miền núi vùng sâu vùng xa của tỉnh.

Ý thức được tầm quan trọng ấy của rừng, thấy được trách nhiệm làm chủ của mỗi người dân đối với tài nguyên thiên nhiên, nên mọi khó khăn, thách thức đã biến thành động lực để những người giữ rừng sống chết đều bám lấy rừng… Với BQL RPH Đức Linh, trước những khó khăn gặp phải, lãnh đạo BQL đã phối hợp với Ban chấp hành công đoàn tuyên truyền vận động lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng chỉ nghỉ chế độ 1 ngày trong tuần, để tập trung cho công tác BVR và PCCCR trong thời gian cao điểm. Các tổ, trạm bảo vệ rừng đều xây dựng kế hoạch bảo vệ rừng hàng tháng, phối hợp cùng tổ Kiểm lâm cơ động, lực lượng của 3 xã Mê Pu, Sùng Nhơn, Đa Kai và Kiểm lâm phụ trách địa bàn các xã có rừng. Cùng với triển khai tuần tra, kiểm tra, truy quét bảo vệ rừng và chống người thi hành công vụ trên lâm phận quản lý, đặc biệt chú trọng vùng giáp ranh với tỉnh Lâm Đồng và các khu vực trọng điểm có nguy cơ xảy ra cháy rừng, phá rừng, khai thác rừng, lấn chiếm đất rừng.

Theo đánh giá của Ban Cán sự UBND tỉnh Bình Thuận, sau 2 năm thực hiện Nghị quyết số 05 -NQ/TU, đến nay công tác quản lý, bảo vệ rừng tiếp tục được tăng cường, đặc biệt là rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ ven biển, rừng giáp ranh với các tỉnh. Đồng thời triển khai tốt các giải pháp ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh các hành vi xâm hại tài nguyên rừng, lấn chiếm đất rừng. Tỉnh đã sử dụng công nghệ viễn thám, ảnh vệ tinh trong quản lý, bảo vệ rừng phát huy hiệu quả.

Theo quy hoạch 3 loại rừng giai đoạn 2016 – 2025 của UBND tỉnh Bình Thuận, diện tích rừng toàn tỉnh 347.621,68 ha, được giao cho 2 Khu bảo tồn thiên nhiên 34.857,44 ha; 15 BQLRPH 261.327,37 ha; 2 Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp 30.143,83 ha, còn lại là diện tích thuộc các lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp và UBND cấp xã quản lý.

Bài 2: Tháo nút thắt, bứt phá bảo vệ rừng

Bài 3: Quyết liệt các giải pháp

Bài 4: Làm giàu từ rừng

Kiều Hằng // https://baobinhthuan.com.vn

Views: 3

The post Bảo vệ rừng – sự sống còn. Bài 1 appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Bình Thuận tăng cường trồng cây xanh dọc kênh thủy lợi, các khu đất trống, đồi núi trọc https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/binh-thuan-tang-cuong-trong-cay.html Mon, 05 Aug 2024 02:57:06 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28686 Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi

The post Bình Thuận tăng cường trồng cây xanh dọc kênh thủy lợi, các khu đất trống, đồi núi trọc appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường

BÌNH THUẬN TĂNG CƯỜNG TRỒNG CÂY XANH DỌC KÊNH THỦY LỢI, CÁC KHU ĐẤT TRỐNG, ĐỒI NÚI TRỌC

Để chung tay ứng phó với biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, trong những năm qua, các ngành, địa phương của tỉnh Bình Thuận đã trồng thêm cây xanh, trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc và coi đây là một việc làm cần thiết.

Theo đó, tỉnh Bình Thuận luôn xác định việc trồng cây xanh là việc làm quan trọng, gắn liền với quá trình phát triển toàn diện của tỉnh không chỉ cho hôm nay mà cho cả các thế hệ mai sau. Đồng thời là điều kiện cần để phát triển kinh tế – xã hội, trong đó có du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.

Thực tế hiện nay cho thấy, hiện tượng sa mạc hóa và suy thoái đất đang từng bước tấn công các vùng phía bắc tỉnh như các huyện Tuy phong, Bắc Bình, hàng nghìn ha động cát và đồi cát di động đang có nguy cơ phủ lấp quốc lộ 1A, các cánh đồng, làng mạc dân cư cận kề gây ảnh hưởng đến đời sống của hàng ngàn người dân. Để bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện cảnh quan và ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân thì phải trồng cây, trồng rừng nhằm bảo vệ môi trường sống để hướng đến phát triển bền vững là một hướng đi hiệu quả để phát triển du lịch của tỉnh trong thời gian tới.

Trồng cây xanh tại khu công nghiệp Tân Đức

Mục tiêu của Bình Thuận là nhân rộng mô hình trồng cây xanh trên các tuyến đường dọc kênh thủy lợi, các tuyến đường liên huyện, liên xã, các khu đất trống, đồi trọc do nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh, qua đó phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động trong khối thi đua thuộc các cơ quan cấp tỉnh. Nâng cao nhận thức về vai trò của việc bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, đồng thời góp phần phục hồi mảng xanh, phát triển cây xanh trên địa bàn tỉnh.

Nhiệm vụ được đặt ra là, các khối thi đua thuộc các cơ quan cấp tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện các công trình trồng cây xanh, từ nay đến năm 2025 mỗi khối thi đua thực hiện hoàn thành ít nhất 1 công trình trồng cây xanh trên các tuyến đường dọc các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, đường liên huyện, liên xã, các tuyến đường chính của địa phương, dọc kênh thủy lợi, các khu đất trống, đồi trọc do nhà nước quản lý, ưu tiên lựa chọn thực hiện công trình dọc các tuyến kênh thủy lợi lớn, các tuyến đường liên huyện, liên xã để tạo cảnh quan, mỗi công trình trồng tối thiểu 1.000 cây.

Lựa chọn loài cây trồng phù hợp với điều kiện lập địa, điều kiện sinh thái gây trồng của từng địa phương, từng khu vực cụ thể, ưu tiên trồng cây bản địa lâu năm, cây gỗ lớn, trồng cây đa mục đích, cây có giá trị bảo vê ̣môi trường, tác dụng phòng hộ cao, gồm các loài cây như bạch đàn, dầu rái, keo lai, keo lá tràm, sao đen, xoan chịu hạn, trôm, keo chịu hạn, xoan ta, keo lá liềm, lim xanh, giáng hương, phi lao…

Ngoài ra, có thể nghiên cứu, lựa chọn một số loài cây trồng phân tán khu vực đô thị theo danh mục loài cây trồng thực hiện kế hoạch trồng 10 triệu cây xanh trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 – 2025. Việc tổ chức triển khai trồng cây xanh thực hiện trong mùa mưa năm 2024, 2025, UBND tỉnh yêu cầu phải trồng đạt tỷ lệ sống cao và phát triển tốt sau khi trồng, việc triển khai thực hiện trồng cây nên tiến hành vào đầu mùa mưa tháng 6 đến tháng 7 đối với các huyện phía Nam tỉnh và tháng 8 đến tháng 9 đối với các huyện phía Bắc tỉnh.

Đối với các khối thi đua, UBND tỉnh Bình Thuận yêu cầu xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện, trong đó phân công rõ trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị trong khối, xác định số lượng, loài cây, địa điểm, thời gian trồng, kế hoạch chăm sóc đảm bảo thực hiện hoàn thành kế hoạch. Đồng thời tuyên truyền sâu rộng về mục đích, ý nghĩa của công trình, vai trò, tác dụng của việc trồng cây, trồng rừng đến toàn thể cán bộ, công chức và người lao động trong cơ quan, đơn vị.

Bên cạnh đó vận động nhân dân tham gia trồng cây, duy trì và bảo vệ công trình trồng cây xanh. Phối hợp chặt chẽ với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để tham vấn, lựa chọn chủng loại cây trồng và quy cách trồng cho phù hợp. Đối với các công trình dọc kênh thủy lợi, phối hợp với Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi tỉnh, đối với các công trình trồng tại các khu vực đất đồi núi chưa sử dụng do nhà nước quản lý phối hợp với các chủ rừng, địa phương để xây dựng kế hoạch trồng và chăm sóc sau khi trồng. Phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh thực hiện các công trình trồng cây trên các tuyến đường vào thành phố Phan Thiết.

Sau khi thực hiện công trình phải xây dựng kế hoạch tổ chức chăm sóc, bảo vệ công trình, trong đó nêu rõ trách nhiệm của đơn vị thực hiện công trình và các đơn vị phối hợp. Có kế hoạch tưới, bón phân, phun thuốc định kỳ, thường xuyên, trồng thay thế các cây trồng bị chết, kém sinh trưởng của các công trình đã thực hiện.

Hồng Trang // https://moitruong.net.vn

Views: 374

The post Bình Thuận tăng cường trồng cây xanh dọc kênh thủy lợi, các khu đất trống, đồi núi trọc appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Bình Thuận trồng mới 790ha rừng https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/binh-thuan-trong-moi-790ha-rung.html Mon, 05 Aug 2024 01:45:53 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28674 Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi

The post Bình Thuận trồng mới 790ha rừng appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường

BÌNH THUẬN TRỒNG MỚI 790HA RỪNG

Từ đầu năm đến nay, ngành chức năng tỉnh Bình Thuận tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng. Đồng thời, toàn tỉnh trồng mới 790ha rừng.

Bình Thuận đang vào mùa mưa, các đơn vị chủ rừng tập trung gieo ươm, chăm sóc cây giống, chuẩn bị đất để triển khai trồng rừng, trồng cây phân tán khi điều kiện thời tiết thuận lợi. Đến nay, đã gieo ươm được 3,73 triệu cây giống các loại. Đồng thời, tiếp tục chăm sóc các mô hình trồng cây dược liệu dưới tán rừng năm 2022, 2023 và triển khai nhân rộng mô hình trong năm 2024.

Được biết, trong năm 2024 toàn tỉnh Bình Thuận giao khoán bảo vệ rừng chuyển tiếp 139.929,54 ha, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên thực hiện chuyển tiếp 1.729,64 ha. Song song, tập trung xây dựng Đề án phát triển vùng nguyên liệu gỗ và chế biến bền vững trên địa bàn tỉnh Bình Thuận, giai đoạn 2021 – 2030.

Ươm giống cây rừng trồng

Từ đầu năm đến nay, công tác quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng mùa khô năm 2024 được ngành chức năng tăng cường. Cụ thể, các đơn vị chủ rừng và các địa phương tăng cường hoạt động tuần tra, kiểm tra, truy quét các vùng trọng điểm phá rừng. Qua đó đã phát hiện, lập hồ sơ xử lý 136 vụ vi phạm luật lâm nghiệp (tăng 28 vụ so cùng kỳ), tịch thu 105,7 m3 gỗ các loại, 115,7 kg động vật rừng, 1 ô tô, 64 xe máy và 30 phương tiện khác. Toàn tỉnh xảy ra 13 vụ lấn, chiếm đất rừng với diện tích 2,6 ha (tăng 2 vụ so cùng kỳ).

Tổng diện tích có rừng và diện tích rừng đã trồng chưa thành rừng của tỉnh Bình Thuận tính đến ngày 31/12/2023 là 349.068,56 ha. Trong đó, tổng diện tích đất có rừng là 342.127,58 ha (rừng tự nhiên là 296.915,47 ha; rừng trồng là 45.212,11 ha); diện tích đã trồng chưa đạt tiêu chí thành rừng là 6.940,98 ha. Diện tích đất có rừng đủ tiêu chuẩn để tính tỷ lệ che phủ rừng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận năm 2023 là 342.127,58 ha/794.260 ha, tỷ lệ che phủ là 43,08%.

Căn cứ hiện trạng rừng năm 2023 trên địa bàn tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bình Thuận chỉ đạo lực lượng kiểm lâm, chủ rừng tổ chức quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu tài nguyên rừng trên phạm vi toàn tỉnh và của từng địa phương, thực hiện công tác theo dõi diễn biến rừng cho phù hợp; tích hợp vào hệ thống dữ liệu ứng dụng công nghệ viễn thám, sử dụng ảnh vệ tinh trong quản lý, giám sát tài nguyên rừng tỉnh Bình Thuận.

UBND các huyện, thị xã, thành phố thực hiện trách nhiệm quản lý Nhà nước về lâm nghiệp theo quy định của Luật Lâm nghiệp, hướng dẫn của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Sử dụng số liệu hiện trạng rừng năm 2023 để triển khai thực hiện Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững và các chương trình, dự án có liên quan đến rừng một cách hiệu quả, khoa học đảm bảo bền vững.

Hồng Trang // https://moitruong.net.vn

Views: 377

The post Bình Thuận trồng mới 790ha rừng appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Cục Biển và Hải đảo Việt Nam: thực thi nhiều chính sách quan trọng hướng đến một đại dương không rác thải nhựa https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/dai-duong-khong-rac-thai-nhua.html Tue, 02 Jul 2024 07:46:46 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28188 Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi

The post Cục Biển và Hải đảo Việt Nam: thực thi nhiều chính sách quan trọng hướng đến một đại dương không rác thải nhựa appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường

CỤC BIỂN VÀ HẢI ĐẢO VIỆT NAM: THỰC THI NHIỀU CHÍNH SÁCH QUAN TRỌNG HƯỚNG ĐẾN MỘT ĐẠI DƯƠNG KHÔNG RÁC THẢI NHỰA

Hiện nay, với những thách thức về ô nhiễm rác thải nhựa đại dương đang được xem là vấn đề cấp bách toàn cầu, đòi hỏi sự chung tay của các quốc gia trên thế giới, Việt Nam là quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng từ ô nhiễm rác thải nhựa trên biển nói riêng và rác thải nhựa nói chung. Nhằm đóng góp chung vào nỗ lực giảm nhựa, bảo vệ môi trường biển của nước ta, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, đơn vị được Bộ TN&MT giao trọng trách quản lý TNMT biển, đã thực thi nhiều chính sách quan trọng hướng đến một đại dương không rác thải nhựa trong tương lai.

Chung tay hành động

Ngày 04 tháng 12 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1746/QĐ-TTg về việc ban hành kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương (RTNĐD) đến năm 2030. Tiếp sau đó, ngày 21/8/2020, Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Minh Ngân đã ký Quyết định số 1855/QĐ-BTNMT ban hành Kế hoạch thực hiện Quyết định số 1746/QĐ-TTg ngày 04/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030.

Trên cơ sở đó, Bộ TN&MT đã giao Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam là cơ quan chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch; hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Kế hoạch, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, đúng tiến độ; chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan tổng hợp, thống kê, phân loại, đánh giá các nguồn thải nhựa ở khu vực ven biển, các hải đảo và từ các hoạt động trên biển; chủ trì thực hiện các nhiệm vụ, dự án thuộc Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo có liên quan đến rác thải nhựa đại dương…

Tăng cường phối hợp giữa các bộ, ban, ngành, phối hợp với các địa phương có biển xây dựng nhiều mô hình giảm nhựa

Triển khai nội dung này, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam với sự hỗ trợ của Tổ chức Quốc tế về bảo tồn Thiên nhiên (WWF) thông qua tài trợ của Bộ Bộ Môi trường, Bảo tồn Thiên nhiên và An toàn Hạt nhân CHLB Đức Đức đã xây dựng và triển khai Dự án “Giảm thiểu rác thải nhựa đại dương tại Việt Nam”. Dự án được chính thức phê duyệt và triển khai ở cấp trung ương và 10 tỉnh/thành phố, quận (huyện)/thị xã, bao gồm: Hà Tĩnh, Quảng Bình (Đồng Hới), Thừa Thiên Huế (A Lưới), Đà Nẵng, Quảng Nam (Cù Lao Chàm), Phú Yên (Tuy Hòa), Bà Rịa – Vũng Tàu (Côn Đảo), Long An (Tân An), Kiên Giang (Rạch Giá và Phú Quốc).

Dự án được thực hiện với kỳ vọng sẽ góp phần giảm ô nhiễm rác thải nhựa đại dương tại Việt Nam thông qua việc hỗ trợ xây dựng các văn bản hướng dẫn để thực hiện các chính sách ưu tiên liên quan đến chất thải nhựa, các hoạt động truyền thông, tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi đối với chất thải nhựa, nhằm hỗ trợ thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030 tại Việt Nam.

Bà Nguyễn Mỹ Hằng, Trưởng phòng Khoa học, Công nghệ và Hợp tác quốc tế, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam chia sẻ tham luận trong khuôn khổ Hội nghị mô hình giảm nhựa tại các đô thị diễn ra vào cuối năm 2023

Đến nay, Dự án “Giảm thiểu rác thải nhựa đại dương tại Việt Nam” đã được triển khai sâu rộng và toàn diện, các hoạt động dự án của các hợp phần đã thu về được nhiều kết quả tích cực trong việc góp phần hỗ trợ quá trình triển khai thực hiện luật Bảo vệ Môi trường 2020, các nghị định và thông tư dưới luật liên quan đến quản lý chất thải rắn và chất thải nhựa; có thêm nhiều địa phương cam kết trờ thành Đô thị Giảm nhựa. Điều đáng chú ý, tại các địa phương, thông qua các hoạt động của Dự án, nhiều trường học đã xây dựng và triển khai chương trình giáo dục về giảm rác thải nhựa, hàng ngàn tấn và mét khối được thu gom nhằm ngăn chặn sự thất thoát ra môi trường biển, làm sạch các khu bảo tồn biển quan trọng Phú Quốc, Côn Đảo, Cù Lao Chàm.

Hội nghị về mô hình giảm nhựa tại các đô thị với sự tham dự của nhiều chuyên gia, nhà khoa học từ các tổ chức trong nước và quốc tế

Theo Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam Nguyễn Đức Toàn cho biết, qua các hoạt động được triển khai và giám sát tại địa phương, có thể thấy, các địa phương đã tham gia, hợp tác và phối hợp tích cực với các cán bộ của dự án, trao đổi và đề xuất các chương trình địa phương mong muốn triển khai và tham gia tích cực đem lại nhiều kết quả rất khả quan. Các hoạt động của Dự án đã đóng góp hiệu quả, thiết thực cho việc triển khai Kế hoạch hành động quốc gia về giảm thiểu rác thải nhựa đại dương và Đề án Việt Nam chủ động chuẩn bị và tham gia xây dụng Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa đại dương.

Đồng thời, dự án cũng tạo ra tác động truyền thông 2 chiều thúc đẩy việc thay đổi hành vi trong xã hội. Từ việc tuyên truyền chính sách và các kế hoạch hành động cấp quốc gia đã tạo ra động lực thay đổi tới các tổ chức cộng đồng, các doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân; Tại những điểm có các phong trào bảo vệ môi trường, có các chương trình và hoạt động truyền thông nhận thức, thái độ và hành vi của các nhóm đối tượng truyền thông mục tiêu đều trở nên tích cực hơn. Nhiều chương trình, phong trào, chiến dịch, sự kiện truyền thông đã được tổ chức với quy mô và hình thức đa dạng, tiếp cận nhiều nhóm công chúng mục tiêu với các thông điệp tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tất cả các hoạt động đã tạo hiệu ứng tích cực, thu hút sự chú ý đối với phong trào chống rác thải nhựa tổng thể trên toàn quốc. Các hoạt động truyền thông được thực hiện song song với việc triển khai các mô hình và biện pháp can thiệp cụ thể tại từng địa phương đã tạo từ đó hình thành sự cộng hưởng giữa các hoạt động với hiệu quả cao hơn.

Bên cạnh đó, dự án cũng đã thực hiện hỗ trợ xây dựng các văn bản hướng dẫn kỹ thuật và kế hoạch hoạt động nhằm hỗ trợ thực hiện chính sách quản lý chất thải rắn, bao gồm cả trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (Extended Producer Responsibility – EPR). Theo đó, việc hỗ trợ xây dựng các văn bản hướng dẫn kỹ thuật và kế hoạch hoạt động nhằm hỗ trợ thực hiện chính sách quản lý chất thải rắn đã thu được những kết quả đột phá và kịp thời từ các hoạt động nghiên cứu/đánh giá, tham vấn và khuyến nghị,… góp phần hoàn thiện khuôn khổ chính sách và thể chế nhằm tăng cường quản lý hiệu quả chất thải rắn và đưa hệ thống EPR quy định triển khai ở cấp quản lý quốc gia và địa phương. Góp phần triển khai những hoạt động mang tính hỗ trợ, đảm bảo cam kết của Việt Nam trong việc tham gia một Hiệp ước toàn cầu ràng buộc về mặt pháp lý về ô nhiễm nhựa, bao gồm quản lý rác thải nhựa đại dương.

Nhiều mô hình hay, thực hành tốt, đem lại các kết quả tích cực đã được ghi nhận và nhân rộng tại các địa bàn tham gia chương trình Đô thị Giảm nhựa

Để có thể đạt được các mục tiêu, chỉ số của Dự án cũng như tạo ra sự thay đổi toàn diện cả về nhận thức, lẫn hành vi của các bên liên quan trong việc giảm thiểu rác thải nhựa tại Việt Nam, Dự án cùng các đối tác ở các cấp khác nhau đã và đang triển khai các gói hoạt động cụ thể nhằm tăng cường công tác quản lý, thu gom, phân loại – xử lý rác, tăng tỷ lệ thu hồi rác tái chế; tích cực tuyên truyền, giáo dục; thúc đẩy việc xử lý và xoá các điểm nóng về rác thải nhựa… đồng thời gắn kết các bên liên quan trong xã hội để cùng nỗ lực giảm thiểu rác thải nhựa. Rất nhiều các mô hình hay, thực hành tốt, đem lại các kết quả tích cực đã được ghi nhận và nhân rộng tại các địa bàn tham gia chương trình Đô thị Giảm nhựa.

Dự án đã phối hợp với các địa phương tiến hành thực hiện nghiên cứu đầu vào để đánh giá về hiện trạng quản lý và phát sinh rác thải của các địa bàn. Từ đó, xác định những nguồn phát thải chính, những điểm nóng ô nhiễm và các nguyên nhân gây thất thoát rác nhựa. Với kết quả này, đặc biệt là sơ đồ dòng thải của các địa phương, Dự án hỗ trợ xây dựng, tham vấn và từ đó thúc đẩy các địa phương ban hành thành công kế hoạch hoạt động Quản lý RTN của địa phương dựa trên Kế hoạch Quốc gia về Quản lý RTN đại dương đến năm 2030 được ban hành theo Quyết định 1746/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ngày 4/12/2019.

Chủ động, tích cực tham gia xây dựng Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa đại dương

Ngày 16/8/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1407/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Việt Nam chủ động chuẩn bị và tham gia xây dựng Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa đại dương. Đề án dựa trên quan điểm thực hiện chủ trương, đường lối và định hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam; tiên phong trong khu vực trong giải quyết vấn đề rác thải nhựa đại dương; góp phần xây dựng và thực thi thành công mô hình nền kinh tế tuần hoàn, quản lý nhựa hiệu quả.

Đề án với 6 nhiệm vụ chính được đưa ra bao gồm: Xây dựng năng lực chuẩn bị đàm phán; Thu thập thông tin, thiết lập cơ sở dữ liệu; Bố trí nguồn lực công tác chuẩn bị đàm phán, Thiết lập cơ chế điều phối; Huy động hỗ trợ trong nước và quốc tế; Tăng cường vai trò, trách nhiệm quốc gia, Đề án hướng tới mục tiêu bảo đảm đầy đủ điều kiện về nguồn lực, thông tin, dữ liệu phục vụ cho việc chủ động, tích cực chuẩn bị và tham gia đàm phán, bảo đảm quyền, lợi ích và nâng cao năng lực quốc gia trong việc phòng, chống ô nhiễm nhựa đại dương.

Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường là đơn vị chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức thực hiện Đề án. Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam được giao là cơ quan chủ trì tham mưu Bộ TN&MT xây dựng kế hoạch và triển khai Đề án. Để triển khai nhiệm cụ này, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị có liên quan để nghiên cứu, xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện Đề án đảm bảo tiến độ, chất lượng và hiệu quả.

Cùng với đó, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã cùng các chuyên gia, nhà khoa học và các tổ chức phi chính phủ tổ chức hàng loạt các sự kiện, hội thảo, hội nghị nhằm xây dựng các kịch bản khác nhau để chủ động tham gia trong tiến trình hình thành Ủy ban Đàm phán liên chính phủ (INC) và thể hiện sự ủng hộ của mình bằng việc cử đại diện tham gia Nhóm công tác đặc biệt về rác thải nhựa đại dương của Hội đồng môi trường của Liên hợp quốc (AHEG). Tại Phiên họp AHEG lần thứ 3, Việt Nam đã thể hiện quan điểm: “Chúng tôi nhận thấy vấn đề rác thải đại dương và vi nhựa là vấn đề đáng quan tâm. Các thách thức về rác thải đại dương và vi nhựa là vấn đề toàn cầu và đòi hỏi các giải pháp và sáng kiến toàn cầu phù hợp với các ưu tiên vùng và quốc gia”.

Đồng thời, vào tháng 9/2021, Việt Nam cùng với CHLB Đức, Ecuador và Ghana đồng chủ trì tổ chức Hội nghị Bộ trưởng về ô nhiễm nhựa và rác thải đại dương với mục tiêu xây dựng động lực để giải quyết vấn đề ô nhiễm nhựa và rác thải đại dương đã được tạo ra từ rất nhiều cuộc thảo luận quốc tế trước đó và đưa ra các đề xuất cụ thể để giải quyết vấn đề này tại UNEA-5.2. Một trong những kết quả đáng ghi nhận của Hội nghị là 76 quốc gia trong đó có Việt Nam đã thông qua Tuyên bố Bộ trưởng nhằm xây dựng động lực và ý chí chính trị để thúc đẩy một chiến lược toàn cầu chặt chẽ nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm nhựa và rác thải đại dương.

Việc thông qua Tuyên bố này, Việt Nam đã tiến thêm bước nữa trong việc tiếp tục khẳng định những cam kết chính trị của mình với cộng đồng quốc tế, góp phần gửi tín hiệu mạnh mẽ tới UNEA-5.2 về sự ủng hộ rộng rãi đối với việc thành lập Ủy ban Đàm phán liên chính phủ để bắt đầu tiến trình đàm phán cho một Thoả thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa và rác thải đại dương, phù hợp với Chương trình nghị sự 2030 và các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc.

Việt Nam luôn là thành viên tích cực tham gia các phiên đàm phán Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa

Hiện nay, Ủy Ban môi trường Liên Hiệp quốc đã tổ chức 4 kỳ đàm phán và Việt Nam luôn tham gia với tư cách nước thành viên tích cực, năng động chống lại ô nhiễm nhựa. Theo dự kiến, một thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa mang tính ràng buộc về pháp lý sẽ được đưa ra vào kỳ họp thứ 5 diễn ra vào cuối năm 2024.

Mặc dù còn rất nhiều quan điểm khác nhau giữa các quốc gia để đi đến một Thỏa thuận cuối cùng, song Đoàn Việt Nam luôn tham gia một cách tích cực, có trách nhiệm tại các cuộc họp. Đồng thời, trong suốt quá trình thảo luận, Đoàn cũng đã phối hợp với các Đoàn trong khu vực ASEAN và một số quốc gia khác để ủng hộ lẫn nhau trong quá trình đề xuất nội dung. Có thể thấy rằng, Việt Nam luôn tham gia thảo luận trên tinh thần bám sát quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật Việt Nam, các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt Nam là thành viên, phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, tăng cường vận động, thu hút nguồn lực về tài chính và công nghệ để thực hiện Thỏa thuận trong tương lai, cùng chung tay nỗ lực vì một đại dương xanh và bền vững.

Thu Lan // https://vasi.gov.vn

Views: 750

The post Cục Biển và Hải đảo Việt Nam: thực thi nhiều chính sách quan trọng hướng đến một đại dương không rác thải nhựa appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Khi Trái đất tăng nhiệt kỷ lục https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/khi-trai-dat-tang-nhiet-ky-luc.html Thu, 27 Jun 2024 09:23:10 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28066 Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi

The post Khi Trái đất tăng nhiệt kỷ lục appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường

KHI TRÁI ĐẤT TĂNG NHIỆT KỶ LỤC

Những đợt nắng nóng nguy hiểm đang bao trùm nhiều thành phố ở các châu lục trên thế giới, dấy lên quan ngại về khả năng mùa hè năm nay sẽ ghi nhận những kỷ lục nhiệt độ mới. Đây là hệ quả của tình trạng biến đổi khí hậu. Các nhà khoa học cảnh báo, biến đổi khí hậu, mà biểu hiện là sự nóng lên toàn cầu, làm gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan, trong đó nắng nóng xảy ra với tần suất nhiều hơn và khắc nghiệt hơn, với nền nhiệt tăng chưa từng thấy.

Khách du lịch đi bộ gần Đấu trường La Mã tại Rome trong đợt nắng nóng lan rộng khắp Italia, ngày 17/7/2023. (Ảnh: Reuters)

Năm 2024 được dự báo là năm nắng nóng kỷ lục tiếp theo, “xô đổ” kỷ lục về nắng nóng ghi nhận năm 2023. Nhiều vùng rộng lớn trên thế giới đã phải hứng chịu nhiệt độ cao trước khi mùa hè bắt đầu ở bắc bán cầu. Theo Cơ quan Khí quyển và Đại dương quốc gia Mỹ, các quốc gia Địa Trung Hải đã phải hứng chịu thêm nắng nóng khắc nghiệt, làm bùng phát các vụ cháy rừng từ Bồ Đào Nha đến Hy Lạp và dọc theo bờ biển Algeria ở phía Bắc châu Phi. Các khu vực ở Trung Tây và Đông Bắc nước Mỹ cũng đang chìm trong nắng nóng gay gắt, buộc nhà chức trách ban bố cảnh báo nắng nóng có thể gây nguy hiểm đối với sức khỏe người dân. Một đợt nắng nóng triền miên thiêu đốt hầu hết nước Mỹ với nhiều khu vực ghi nhận các mốc nhiệt kỷ lục. Tại châu Á, nắng nóng dữ dội cũng khiến một số quốc gia phải nâng mức cảnh báo về tăng nhiệt.

Nắng nóng dữ dội

Cơ quan Thời tiết Quốc gia Mỹ (NWC) đã đưa ra cảnh báo nắng nóng cực độ kéo dài ở vùng Bờ Đông và Trung Tây nước này, ảnh hưởng tới gần 72 triệu người. NWC cảnh báo nắng nóng nhất có thể sẽ xảy ra ở một số vùng của bang Ohio và Indiana. Trung Tây không phải là khu vực duy nhất bị nắng nóng thiêu đốt, vì các cảnh báo và khuyến cáo về nhiệt độ cao và cực cao đã được đưa ra trên khắp khu vực Đông Bắc, giữa Đại Tây Dương và một số bang miền Tây nước này. Thành phố New York của Mỹ cho biết đã mở các địa điểm nghỉ ngơi tránh nóng có thiết bị làm mát phục vụ người dân. Cơ quan khí tượng Mỹ cũng ban hành cảnh báo nắng nóng gay gắt đối với các khu vực của bang Arizona khi nhiệt độ dự đoán có thể lên đến 45,5 độ C.

Tại châu Âu, ngay từ trước khi chính thức vào mùa hè, nhiều quốc gia đã ghi nhận một số trường hợp tử vong do nắng nóng. Nắng nóng bất thường kéo dài đã khiến ba khách du lịch nước ngoài tử vong ở Hy Lạp. Tại châu Á, nắng nóng gay gắt hoành hành nhiều khu vực ở Ấn Độ trong những tuần gần đây. Nhiều vùng phía Bắc Ấn Độ đã hứng chịu đợt nắng nóng bắt đầu từ giữa tháng 5, với nhiệt độ lên tới hơn 45 độ C. Giới chức y tế nước này cho biết, ít nhất 110 người đã tử vong do nắng nóng từ ngày 1/3 đến 18/6. Ấn Độ đang trải qua đợt nắng nóng kéo dài nhất từ trước đến nay. Ấn Độ là nước phát thải khí nhà kính lớn thứ ba thế giới nhưng đã cam kết đạt mục tiêu trung hòa phát thải vào năm 2070. Hiện nay, nước này phụ thuộc hoàn toàn vào than đá để sản xuất điện. Trong đợt nắng nóng mới nhất, nhiệt độ ở thủ đô New Delhi ngang với mức cao kỷ lục trước đó ở thành phố này là 49,2 độ C ghi nhận năm 2022. Nắng nóng khiến nhu cầu làm mát tăng cao, gây áp lực đối với mạng lưới điện, nâng nhu cầu tiêu thụ điện lên mức kỷ lục 8.302 MW.

Trong khi đó, Cơ quan Khí tượng quốc gia Trung Quốc (NMC) cho biết, một đợt nắng nóng lớn có thể lan rộng khắp các khu vực ở miền bắc nước này, đẩy nhiệt độ lên mức cao kỷ lục tại một số khu vực. Theo NMC, đợt nắng nóng, bắt đầu từ ngày 8/6, đã buộc nhà chức trách phải đưa ra các cảnh báo về khí hậu, sau khi Trung Quốc ghi nhận mùa xuân nóng nhất trong lịch sử. Đài quan sát quốc gia Trung Quốc đã đưa ra cảnh báo màu cam về nhiệt độ cao – mức cảnh báo nghiêm trọng thứ hai, trong bối cảnh nắng nóng oi bức bao trùm khu vực miền bắc.

Nhân tố làm tăng mức độ nguy hiểm

Nghiên cứu khoa học cho thấy, biến đổi khí hậu đang khiến các đợt nắng nóng kéo dài hơn, thường xuyên hơn và dữ dội hơn. Theo các nhà khoa học, nếu không có biến đổi khí hậu, thế giới có lẽ đã không có thêm trung bình 26 ngày nắng nóng cực độ trong 12 tháng qua. Biến đổi khí hậu do con người gây ra là nguyên nhân khiến số ngày nắng nóng cực độ trong năm 2023 trung bình ở tất cả các nơi trên thế giới tăng thêm 26 ngày. Nắng nóng cực độ đã ảnh hưởng đến nhiều vùng trên thế giới từ Mexico đến Pakistan. Trong 12 tháng qua, 6,3 tỷ người – khoảng 80% dân số toàn cầu – đã hứng chịu ít nhất 31 ngày nắng nóng cực độ. Tổng cộng có tới 76 đợt nắng nóng cực độ xảy ra ở 90 quốc gia khác nhau trên mọi châu lục, ngoại trừ Nam Cực. Trong số các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất, có năm quốc gia thuộc khu vực Mỹ Latin.

Nghiên cứu khoa học cho thấy, biến đổi khí hậu đang khiến các đợt nắng nóng kéo dài hơn, thường xuyên hơn và dữ dội hơn. Biến đổi khí hậu do con người gây ra là nguyên nhân khiến số ngày nắng nóng cực độ trong năm 2023 trung bình ở tất cả các nơi trên thế giới tăng thêm 26 ngày.

Trong khi đó, nắng nóng gây chết người bao trùm Mỹ, Mexico và Trung Mỹ gần đây có khả năng tăng gấp 35 lần do hiện tượng nóng lên toàn cầu. Phân tích đối với năm ngày và đêm liên tiếp nóng nhất trong một “vòm nhiệt” kéo dài ở phía Tây Nam của Mỹ, Mexico, Guatemala, Belize, El Salvador và Honduras vào cuối tháng 5 và đầu tháng 6 năm nay, nhóm nhà khoa học của World Weather Attribution (WWA) – tổ chức chuyên đánh giá vai trò của biến đổi khí hậu đối với mô hình thời tiết cực đoan trên thế giới, đã kết luận rằng, sự nóng lên do con người gây ra từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch đã khiến nhiệt độ tối đa trong năm ngày nóng nhất cao hơn khoảng 1,4 độ C và hiện tượng này có khả năng xảy ra cao hơn khoảng 35 lần. Khả năng xuất hiện những mức nhiệt cao như vậy tại các khu vực trên vào tháng 5 và 6 vừa qua cao hơn bốn lần so với mức 25 năm trước.

Hiện không có bức tranh toàn cảnh về các ca tử vong liên quan nắng nóng, vì những trường hợp này thường chỉ được xác nhận và báo cáo sau nhiều tháng kể từ khi xảy ra sự việc. Tuy nhiên, WWA cảnh báo, nếu con người tiếp tục đốt nhiên liệu hóa thạch, những hiện tượng cực đoan như vậy có thể trở nên thường xuyên hơn nữa và sẽ có thêm hàng triệu người phải tiếp xúc với mức nhiệt nguy hiểm trong tương lai.

Nhiệt độ cao là nguyên nhân hàng đầu dẫn tới các ca tử vong liên quan đến khí hậu. Nắng nóng cực độ đã cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người trong 12 tháng qua, nhưng con số thực tế có thể lên tới hàng trăm nghìn hoặc thậm chí hàng triệu người. Nhiệt độ cao là hiện tượng thời tiết khắc nghiệt gây tử vong nhiều nhất, nhưng thường bị đánh giá thấp, nhất là đối với trẻ em, người già và người làm việc ngoài trời.

Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu năm 2015 hối thúc các quốc gia kiềm chế mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 2 độ C so với mức tiền công nghiệp, đồng thời hướng tới mục tiêu an toàn hơn là 1,5 độ C. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy, đến cuối năm 2023, hoạt động của con người đã đẩy nhiệt độ Trái đất lên cao hơn 1,31 độ C so với mức tiền công nghiệp. Thực tế, Trái đất đã nóng lên tổng cộng 1,43 độ C khi tính đến các yếu tố tự nhiên khác, trong đó có hiện tượng thời tiết El Nino.

Nguyên nhân chính gây nên hiện tượng nóng lên toàn cầu là lượng khí thải nhà kính đang ở mức cao nhất từ trước đến nay. Cụ thể, lượng phát thải trung bình hằng năm trong giai đoạn 2013-2022 là 53 tỷ tấn CO2 và các khí tương đương khác, chủ yếu từ việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch như dầu và khí đốt. Riêng năm 2022, lượng phát thải lên tới 55 tỷ tấn. Điều này có nghĩa “ngân sách các-bon” của thế giới, tức là lượng khí thải nhà kính ước tính có thể được thải ra trước khi đẩy Trái đất vượt qua ngưỡng tăng nhiệt độ 1,5 độ C, đang giảm nhanh chóng. Năm 2020, Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu IPCC tính toán “ngân sách các-bon” còn lại khoảng 500 tỷ tấn. Đến đầu năm 2024, con số này đã giảm xuống còn khoảng 200 tỷ tấn.

Theo các chuyên gia, lượng khí thải nếu vẫn ở mức hiện tại thì tình trạng nóng lên toàn cầu cũng duy trì ở cùng mức độ. Nếu không có những thay đổi đáng kể trong việc cắt giảm khí thải, ngưỡng nhiệt độ 1,5 độ C sẽ bị vượt qua và trở thành “mức trung bình dài hạn” trong một thập niên tới. Trước những mối đe dọa từ biến đổi khí hậu, thế giới không chỉ phải giảm phát thải ổn định, mà cần đưa mức ròng về bằng 0.

Thanh Hải // https://nhandan.vn

Views: 374

The post Khi Trái đất tăng nhiệt kỷ lục appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Hành động bảo vệ tài nguyên đất https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/hanh-dong-bao-ve-tai-nguyen-dat.html Wed, 26 Jun 2024 09:14:17 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28010 Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi

The post Hành động bảo vệ tài nguyên đất appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường

HÀNH ĐỘNG BẢO VỆ TÀI NGUYÊN ĐẤT

Trước cảnh báo gần 40% diện tích đất đai trên toàn cầu đang suy thoái, với diện tích đất mất đi mỗi giây ngày càng tăng, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres hối thúc cộng đồng quốc tế hành động quyết liệt để chấm dứt mọi hành vi tàn phá Trái đất.

Phụ nữ Senegal tham gia dự án vườn ươm cây giống. (Ảnh UN NEWS)

Trong thông điệp nhân Ngày Thế giới chống Sa mạc hóa và Hạn hán (17/6), Tổng Thư ký Liên hợp quốc nêu rõ, không chỉ cung cấp 95% lương thực cho thế giới, mà đất còn mang lại vô số lợi ích khác. Ðất còn là nơi xây dựng chỗ ở, tạo việc làm và sinh kế cho con người, cũng như bảo vệ cộng đồng trước tình trạng hạn hán, lũ lụt và cháy rừng ngày càng nghiêm trọng. Tuy nhiên, mỗi giây trôi qua, lại có diện tích đất tương đương 4 sân bóng đá bị suy thoái.

Với chủ đề “Ðoàn kết vì đất đai. Di sản của chúng ta – Tương lai của chúng ta”, Ngày Thế giới chống Sa mạc hóa và Hạn hán năm nay nêu bật nhu cầu cấp thiết trong việc bảo vệ và khôi phục tài nguyên đất đai, bảo đảm sự phát triển bền vững và tăng cường khả năng phục hồi của các cộng đồng dễ bị tổn thương, đầu tư cho các biện pháp quản lý đất đai tương lai, bảo đảm sự ổn định và thịnh vượng của hàng tỷ người trên thế giới.

Nhấn mạnh chủ đề trọng tâm của Ngày Thế giới chống Sa mạc hóa và Hạn hán năm nay, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres kêu gọi các nước trên thế giới “đoàn kết vì đất đai”, đồng thời hối thúc các chính phủ, doanh nghiệp, giới khoa học, cộng đồng và nhiều bên liên quan khác chung tay hành động.

Trong số 8 tỷ dân trên thế giới, hơn một tỷ thanh niên dưới 25 tuổi sống ở các nước đang phát triển, đặc biệt ở các khu vực phụ thuộc trực tiếp vào đất đai và tài nguyên thiên nhiên để sinh sống.

Khẳng định Công ước Chống sa mạc hóa của Liên hợp quốc quy định rõ về những việc cần làm để giải quyết các vấn đề nêu trên, Tổng Thư ký Liên hợp quốc đề xuất tăng cường nỗ lực, thúc đẩy động lực hướng tới Hội nghị các bên tham gia Công ước Chống sa mạc hóa, dự kiến diễn ra tại Riyadh (Saudi Arabia) vào tháng 12 tới, đồng thời bảo đảm tiếng nói của giới trẻ được lắng nghe trong các cuộc đàm phán. Ông Guterres nhấn mạnh: Cùng nhau, chúng ta hãy gieo hạt giống cho một tương lai thịnh vượng vì thiên nhiên và nhân loại.

Ngày 17/6, Kenya kỷ niệm Ngày Thế giới chống Sa mạc hóa và Hạn hán với thành quả đạt hơn 10% độ che phủ rừng. Chủ trì lễ kỷ niệm, lãnh đạo Bộ Môi trường, Biến đổi khí hậu và Lâm nghiệp Kenya cho biết, độ che phủ cây xanh của nước này đã tăng lên khoảng 12,3%, đồng thời nhấn mạnh đây là dấu mốc quan trọng trong việc giải quyết tình trạng sa mạc hóa, suy thoái đất và hạn hán.

Khoảng 50.000 cây giống đã được huy động để trồng trên khắp Kenya nhân kỷ niệm ngày 17/6 năm nay. Chính phủ Kenya cũng đang thực hiện chiến dịch trồng 15 tỷ cây xanh cho tới năm 2032, nhằm tăng độ che phủ rừng và khôi phục hệ sinh thái, trong bối cảnh Kenya trải qua một số tác động tồi tệ nhất do biến đổi khí hậu, trong đó có những trận mưa lớn sau đợt hạn hán nghiêm trọng nhất ở nước này trong 40 năm qua.

Trong khi đó, tại Syria, ông Muhammad Manhal Al-Zoubi, Giám đốc Cơ quan Nghiên cứu tài nguyên thiên nhiên nước này cho biết, biến đổi khí hậu và bất ổn đã đẩy Syria đối mặt tình trạng sa mạc hóa trên diện rộng. Xung đột vũ trang cũng làm hư hỏng cơ sở hạ tầng thủy lợi, dẫn đến việc mất thêm thảm thực vật và làm trầm trọng thêm tình trạng sa mạc hóa.

// https://nhandan.vn

Views: 1119

The post Hành động bảo vệ tài nguyên đất appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển, thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát triển bền vững kinh tế biển https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/bao-ton-da-dang-sinh-hoc.html Wed, 26 Jun 2024 02:29:52 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=27982 Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi

The post Bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển, thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát triển bền vững kinh tế biển appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường

BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC, CÁC HỆ SINH THÁI BIỂN, THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH, PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN

Tiến ra biển, làm chủ biển, bảo vệ, khai thác, sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển để làm giàu từ biển là xu hướng tất yếu của nhân loại trong thế kỷ XXI – Thế kỷ của đại dương. Vấn đề lớn được đặt ra là: Làm thế nào để phát triển bền vững kinh tế biển mà không gây ảnh hưởng tiêu cực tới hệ sinh thái, đa dạng sinh học, ô nhiễm môi trường biển; huy động sự chung tay, vào cuộc tích cực của Nhà nước, doanh nghiệp và các bên liên quan, đặc biệt là của cộng đồng dân cư ven biển tham gia công tác bảo tồn biển, phát triển bền vững kinh tế biển.

Tư duy và mục tiêu chiến lược

Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa X, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 9-2-2007, “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, thể hiện tầm nhìn chiến lược, quyết tâm đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo,… Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, trên cơ sở thành tựu đã đạt được, nhận diện và đánh giá đúng hạn chế, nguyên nhân của hạn chế; với bước phát triển mới về tầm nhìn phát triển, tư duy lãnh đạo của Đại hội XII (năm 2016), tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018, “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Nghị quyết số 36).

Nghị quyết số 36 khẳng định tầm phát triển mới về tư duy và mục tiêu chiến lược của Đảng ta, đặc biệt là về yêu cầu phát triển bền vững kinh tế biển. Một trong năm quan điểm xuyên suốt được đề ra là: Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hòa giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển. Đồng thời, Nghị quyết chỉ rõ các nhóm mục tiêu cụ thể đến năm 2030: 1- Về các chỉ tiêu tổng hợp: Các chỉ tiêu về quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ theo chuẩn mực quốc tế đạt mức thuộc nhóm nước trung bình cao trở lên trên thế giới. Hầu hết hoạt động phát triển kinh tế – xã hội liên quan đến biển, đảo được thực hiện theo nguyên tắc quản lý tổng hợp phù hợp với hệ sinh thái biển; 2- Về kinh tế biển: các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 – 70% GDP cả nước. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển; 3- Về môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng: Đánh giá được tiềm năng, giá trị các tài nguyên biển quan trọng. Tối thiểu 50% diện tích vùng biển Việt Nam được điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển ở tỷ lệ bản đồ 1:500.000 và điều tra tỷ lệ lớn ở một số vùng trọng điểm. Thiết lập bộ cơ sở dữ liệu số hóa về biển, đảo, bảo đảm tính tích hợp, chia sẻ và cập nhật. Quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia; phục hồi diện tích rừng ngập mặn ven biển tối thiểu bằng mức năm 2000. Cùng với đó, Nghị quyết số 36 nêu rõ các yêu cầu đối với các nhóm chỉ tiêu về xã hội, về khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển. Nghị quyết số 36 cũng chỉ đạo: Mở rộng diện tích, thành lập mới các khu vực bảo tồn biển trên cơ sở quy hoạch không gian biển quốc gia; chú trọng bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái, đặc biệt là các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển; bảo đảm tính toàn vẹn và mối quan hệ tự nhiên giữa các hệ sinh thái đất liền và biển.

Bảo tồn hệ sinh thái biển ở Phú Quốc_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, đến nay, nước ta đã tham gia nhiều cam kết quốc tế chung liên quan đến bảo tồn biển, kinh tế biển xanh và bền vững, nổi bật là: 1- Mục tiêu phát triển bền vững số 14 (SDG-14): “Bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, vùng biển và các nguồn tài nguyên biển để phát triển bền vững”; 2- Cam kết “phát thải ròng bằng 0” vào năm 2050; 3- Tham gia Liên minh Đại dương toàn cầu (GOA) với mục tiêu bảo vệ ít nhất 30% đại dương thế giới vào năm 2030 thông qua một mạng lưới khu bảo tồn biển (MPAs) và các phương cách bảo tồn hiệu quả khác (OECMs); 4- Tham gia Hiệp định về “Bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học ở vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia” (Hiệp định về Biển cả): bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học ở các vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia; 5- Cam kết phát triển nghề cá bền vững, có trách nhiệm; loại bỏ khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU); 6 – Các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên gắn với nhiệm vụ bảo tồn, bảo vệ biển.

Việc thực hiện quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng cùng với triển khai các cam kết quốc tế nêu trên có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy công tác bảo tồn biển, trọng tâm là bảo tồn đa dạng sinh học biển; trong đó có việc thiết lập và quản lý các khu bảo tồn biển nhằm phát triển bền vững kinh tế biển ở Việt Nam.

Vai trò và thực trạng công tác bảo tồn biển

Cốt lõi của phát triển bền vững kinh tế biển là sự phát triển kinh tế – xã hội mà không làm tổn hại, gây suy thoái hệ sinh thái, môi trường biển. Nền tảng cho kinh tế biển là các nguồn tài nguyên thiên nhiên và hệ thống sinh thái của nó hoạt động như vốn biển tự nhiên. Các hệ sinh thái và quá trình của hệ sinh thái bao gồm sự tương tác giữa môi trường sống và không sống như một đơn vị chức năng (hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái rừng ngập mặn,…) ngày càng được các nhà quản lý, nhà khoa học quan tâm và xem như nguồn vốn biển tự nhiên quan trọng cho phát triển kinh tế biển.

Các hệ sinh thái biển và ven biển không chỉ cô lập và lưu trữ một lượng lớn CO2, mà còn bảo vệ các bờ biển và cộng đồng khỏi tác động của biến đổi khí hậu; cung cấp thực phẩm, cơ hội kinh tế, dược phẩm và giải trí, môi trường sống và một loạt các chức năng của hệ sinh thái để hỗ trợ cuộc sống của con người. Một cách tiếp cận tổng hợp thông minh với khí hậu và tập trung vào các giải pháp “thuận thiên”, mở rộng và quản lý thật tốt các khu bảo tồn biển, cùng với phát triển hạ tầng ven biển hợp lý sẽ là những yếu tố quan trọng để bảo vệ các cộng đồng ven biển và sinh cảnh biển. Điều này có thể hỗ trợ tăng sản lượng thủy sản, cho phép phát triển công nghệ dược phẩm, giảm thiểu và thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu, bảo vệ và phục hồi đa dạng sinh học và các giá trị văn hóa biển tại địa phương. Tại Việt Nam, sinh kế của người dân, ngư dân các vùng biển phụ thuộc trực tiếp vào nguồn vốn biển tự nhiên. Các dịch vụ hệ sinh thái bị suy giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng lượng, lương thực, an toàn và sinh kế của đại bộ phận dân cư các vùng ven biển.

Luật Thủy sản năm 2017 quy định: “Khu bảo tồn biển là loại hình khu bảo tồn thiên nhiên, được xác lập ranh giới trên biển, đảo, quần đảo, ven biển để bảo vệ đa dạng sinh học biển”(1). Việc bảo tồn đa dạng sinh học biển không đơn thuần là duy trì, bảo vệ môi trường sống của các loài sinh vật biển, mà còn có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển.

Khu bảo tồn biển được xem là “công cụ” hữu hiệu trong việc bảo tồn đa dạng sinh học, tăng cường khả năng phục hồi hệ sinh thái, bảo vệ các loài sinh vật có nguy cơ tuyệt chủng. Ngoài ra, chúng còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và mang lại cơ hội sinh sống, sinh sản cho những loài thủy sản. Do “hiệu ứng tràn” nên nguồn lợi thủy sản nói riêng và các loài thủy sinh vật nói chung được bổ sung cho các vùng biển lân cận khu bảo tồn biển. Nhờ đó, chúng ta có thể duy trì sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản trên biển.

Khu bảo tồn biển còn là nơi dành cho giáo dục và nghiên cứu khoa học; tổ chức một số hoạt động du lịch và cung cấp sinh kế cho cộng đồng dân cư địa phương, đặc biệt là cộng đồng dân cư sống trong và xung quanh khu bảo tồn biển. Trong môi trường sống ngày càng nhiều áp lực do những vấn đề về kinh tế, môi trường, việc tìm về với thiên nhiên, với biển đang là một xu hướng tích cực. Do đó, giá trị kinh tế của các khu bảo tồn biển đem lại từ hoạt động tham quan, du lịch là rất lớn. Du lịch biển là ngành quan trọng trong tổng thể nền kinh tế biển của Việt Nam, không chỉ đóng góp lớn vào GDP quốc gia, mà còn tạo việc làm cho một số lượng lớn lao động, bao gồm cả lao động chuyên nghiệp trong ngành du lịch và lao động xã hội gián tiếp(2). Phát triển du lịch biển cũng tạo điều kiện, cơ hội cho việc nâng cao trình độ nhân lực trong ngành, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế, lao động, việc làm cho người dân ven biển.

Thực hiện quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, trong những năm qua, hệ thống chính sách, pháp luật về bảo tồn biển ngày càng được hoàn thiện, trong đó đáng lưu ý là việc ban hành các đạo luật, như Luật Đa dạng sinh học năm 2008, Luật Biển Việt Nam năm 2012, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015, Luật Thủy sản (năm 2003 và 2017), Luật Bảo vệ môi trường (năm 1993, 2005, 2014, 2020),… đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho các hoạt động bảo tồn biển và bảo vệ môi trường biển. Thực hiện Quyết định số 742/QĐ-TTg, ngày 26-5-2010, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc phê duyệt Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020”, tính đến tháng 6-2021, đã có 9/16 khu vực biển được khoanh vùng quản lý trong hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên(3).

Theo Báo cáo của Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN)(4), tỷ lệ diện tích tự nhiên vùng biển được khoanh vùng bảo vệ đến năm 2020 tại Việt Nam (bao gồm các khu bảo tồn biển, khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn, khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, khu vực cư trú nhân tạo cho loài thủy sản) là 6.840km2, chiếm khoảng 0,684% diện tích biển quốc gia. Trong khi đó, trong hơn 2 thập niên qua diện tích các khu bảo tồn biển (MPA) trên toàn thế giới đã tăng hơn 10 lần, lên đến 26.225.678km², chiếm 7,2% diện tích đại dương(5). Tổng diện tích quy hoạch bảo tồn, bảo vệ thời kỳ 2021 – 2030 theo dự thảo Quy hoạch Bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến 2050 là khoảng 2.791km2, chiếm khoảng 2,79% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia, như vậy còn thấp hơn nhiều so với mục tiêu 6% được đề ra tại Nghị quyết số 36 và Nghị quyết số 48/NQ-CP, ngày 3-4-2023, của Chính phủ, “Về việc phê duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050” và thấp hơn nhiều so với Sáng kiến mục tiêu “30% diện tích đại dương được bảo vệ vào năm 2030” mà Việt Nam tham gia.

Như vậy, có thể thấy hệ thống khu bảo tồn biển đang dần được hình thành trên phạm vi cả nước, đáp ứng ngày càng hiệu quả mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học, hệ sinh thái biển. Công tác thực thi pháp luật tại các khu bảo tồn biển ngày càng được quan tâm, đẩy mạnh, đạt hiệu quả tích cực, góp phần từng bước đẩy lùi vi phạm pháp luật liên quan đến quản lý khu bảo tồn biển. Nhận thức của các cấp, ngành và cộng đồng về bảo tồn biển ngày càng được nâng cao, tạo thuận lợi cho việc triển khai chủ trương, chính sách liên quan đến bảo tồn biển. Một số khu bảo tồn biển, vườn quốc gia có hợp phần biển đã bước đầu tự chủ về tài chính, thực hiện các dịch vụ công, phát triển du lịch sinh thái kết hợp với bảo tồn, tạo nguồn tài chính chủ động phục vụ cho công tác quản lý, bảo tồn đa dạng sinh học biển. Việc điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản và đa dạng sinh học biển đã được thực hiện và đạt được kết quả quan trọng bước đầu. Tổ chức bộ máy, nhân lực quản lý và tham gia bảo tồn biển đã được xây dựng và ngày càng củng cố.

Tuy nhiên, một số thách thức lớn mà các khu bảo tồn biển ở Việt Nam và trong khu vực đang phải đối mặt là: 1- Suy giảm đa dạng sinh học; 2- Khai thác và nuôi trồng thủy sản không bền vững; 3- Vấn đề a-xít hóa đại dương; 4- Bảo tồn và đô thị hóa; 5- Áp lực du lịch lên môi trường và hệ sinh thái; 6- Ô nhiễm rác thải nhựa. Bên cạnh đó, công tác bảo tồn biển vẫn còn một số hạn chế, bất cập: 1- Chính sách đầu tư phát triển mạng lưới khu bảo tồn biển tại Việt Nam còn rất hạn chế, chưa tương xứng với mục tiêu và nhiệm vụ; 2- Mô hình tổ chức bộ máy quản lý khu bảo tồn biển ở địa phương chưa thống nhất; đội ngũ cán bộ vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng, chưa có điều kiện được đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn hoặc tham gia các khóa tập huấn theo vị trí việc làm phù hợp với công tác thực tế; 3- Một số ban quản lý khu bảo tồn biển đã triển khai thực hiện cơ chế tự chủ về tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính, tuy nhiên đa phần còn thụ động, chủ yếu vẫn trông chờ vào ngân sách nhà nước, trong khi nguồn ngân sách của địa phương rất hạn hẹp, chưa ưu tiên cho lĩnh vực bảo tồn đa dạng sinh học; 4- Cơ sở vật chất thiết yếu, trang thiết bị đầu tư cho các ban quản lý còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế; 5- Xung đột lợi ích bảo tồn và phát triển du lịch, kinh tế. Một số địa phương mới chỉ chú trọng vào các dự án phát triển kinh tế mà chưa quan tâm đến công tác bảo tồn, thậm chí có địa phương còn tiến hành giao đất, giao mặt nước biển thuộc phạm vi quản lý của khu bảo tồn biển cho tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch để xây dựng công trình hạ tầng phát triển du lịch; 6- Công tác phối hợp giữa các lực lượng chức năng thực thi pháp luật trên biển còn hạn chế, nhất là trong công tác tuần tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý vi phạm do thiếu cơ chế phối hợp và nguồn kinh phí triển khai; 7- Ranh giới khu bảo tồn biển có nơi chưa được xác định rõ ràng, việc điều chỉnh thiếu cơ sở khoa học, chủ yếu nhằm mục tiêu phát triển kinh tế, ít coi trọng vấn đề bảo tồn biển; 8- Tình trạng vi phạm pháp luật tại các khu bảo tồn biển diễn ra khá phức tạp, nhất là trong việc khai thác, vận chuyển, buôn bán san hô, động vật, thực vật biển.

Màu xanh trên những cánh rừng lấn biển ở đồng bằng sông Cửu Long (tác giả: Nguyễn Phục Anh)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Một số đề xuất, kiến nghị

Để bảo vệ, bảo tồn đa dạng sinh học biển đạt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 36, trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, nâng cao nhận thức và thay đổi tư duy, cách tiếp cận trong công tác bảo tồn biển theo hướng coi công tác bảo tồn biển chính là tiền đề, điều kiện tiên quyết trong phát triển bền vững kinh tế biển, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan, giữa các thế hệ, tránh xung đột lợi ích giữa các ngành, địa phương trong khai thác, sử dụng không gian biển. Nghiên cứu, áp dụng các cách tiếp cận mới trong bảo tồn biển, nhất là trong thiết lập và quản trị các khu bảo tồn biển, như mở rộng “vùng xanh” của biển, các kiểu loại bảo tồn biển liên kết, chia sẻ, bảo tồn hiệu quả khác (OECMs), mở rộng sự tham gia của các lực lượng, các ngành khác nhau cùng bảo vệ, bảo tồn biển trên nguyên tắc bảo đảm hiệu quả, phù hợp với tính chất, đặc điểm riêng của mỗi vùng biển.

Thứ hai, đẩy nhanh việc trình phê duyệt Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Quy hoạch khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, cần phân bổ không gian ưu tiên cho bảo tồn, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, đa dạng sinh học biển, có các nhiệm vụ, giải pháp phấn đấu đạt chỉ tiêu diện tích bảo tồn biển theo đúng Nghị quyết số 36; xác định, phân vùng không gian biển đối với 4 vùng biển và ven biển phía Bắc, Trung Bộ, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ cho hoạt động bảo tồn và khai thác hải sản, bao gồm vùng cấm khai thác, vùng khai thác có điều kiện cho mục đích bảo tồn biển, vùng khai thác có điều kiện cho mục đích bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thủy sản, vùng cần bảo vệ đặc biệt cho mục đích bảo tồn biển, vùng cần bảo vệ đặc biệt các sinh cảnh quan trọng, vùng khuyến khích phát triển.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sớm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch Bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó cần lưu ý tới việc quy hoạch mở rộng khu bảo tồn biển, khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản đi đôi với các giải pháp tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả ngay sau khi Quy hoạch được phê duyệt. Theo dự kiến, bên cạnh 16 khu bảo tồn biển đã được phê duyệt theo Quyết định số 742/QĐ-TTg, 11 khu bảo tồn biển mới sẽ được bổ sung.

Thứ ba, tiếp tục đánh giá, rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý bảo tồn biển bảo đảm tính tiến bộ, thống nhất, khả thi, phù hợp với thực tế, trong đó cần sớm nghiên cứu, rà soát và sửa đổi, bổ sung Luật Đa dạng sinh học, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo và pháp luật khác liên quan. Tạo hành lang pháp lý thuận lợi để huy động các nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư hạ tầng, phát triển khoa học – công nghệ, nguồn nhân lực cho các khu bảo tồn biển phát triển bền vững. Tăng cường phối hợp và phân định chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm rành mạch giữa các cơ quan quản lý ở Trung ương và giữa Trung ương và địa phương trong lĩnh vực bảo tồn biển, tránh sự “trùng dẫm”, thiếu hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần nghiên cứu xây dựng, trình Chính phủ ban hành và tổ chức thực hiện chính sách đầu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu cho các khu bảo tồn biển (có thể nghiên cứu đưa vào nội dung sửa đổi Nghị định số 67/2014/NĐ-CP, ngày 7-7-2014, của Chính phủ, “Về một số chính sách phát triển thủy sản”); hướng dẫn việc quản lý, xây dựng cơ chế tài chính bền vững, tiến tới các khu bảo tồn biển từng bước tự chủ được về tài chính, có nguồn tài chính bền vững thông qua nguồn thu từ hoạt động dịch vụ liên quan đến khu bảo tồn biển.

Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh công tác điều tra, đánh giá, thiết lập cơ sở dữ liệu đồng bộ, số hóa, liên thông, kết nối và hiện đại về tài nguyên, đa dạng sinh học biển Việt Nam để tích hợp chung vào cơ sở dữ liệu biển và hải đảo, trong đó quan tâm việc đánh giá lượng hóa giá trị hệ sinh thái biển, làm cơ sở để các khu bảo tồn biển xây dựng phương án thu phí, tiến hành xã hội hóa công tác bảo tồn biển.

Tập trung thành lập mới các khu bảo tồn biển sau khi Quy hoạch Bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; hoàn thành việc phân định và có các biện pháp hiệu quả bảo vệ ranh giới các khu bảo tồn biển; đầu tư phục hồi các hệ sinh thái đã bị suy thoái, đặc biệt là các hệ sinh thái san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn ven biển.  

Thứ năm, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, hiểu biết về kiến thức chuyên môn, chính sách, pháp luật về bảo tồn biển cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đối tượng học sinh, sinh viên trong tất cả bậc học, cấp học, cho cộng đồng người dân sống trong và xung quanh khu bảo tồn biển. Thiết lập mối liên hệ, phối hợp chặt chẽ giữa ban quản lý khu bảo tồn biển với chính quyền và cộng đồng dân cư địa phương để bảo đảm sự đồng thuận, hỗ trợ công tác bảo tồn biển được hiệu quả hơn. Tổ chức đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho nhân sự làm bảo tồn biển tại các địa phương.

Thứ sáu, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, phối hợp với các tổ chức, các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học về bảo tồn đa dạng sinh học biển trong và ngoài nước nghiên cứu áp dụng các công nghệ tiên tiến, mô hình quản lý phù hợp với sự tham gia của các bên liên quan vào công tác quản lý khu bảo tồn đa dạng sinh học biển. Thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế liên quan đến biển và đại dương mà Việt Nam đã tham gia nhằm tranh thủ tối đa tri thức, công nghệ và nguồn lực trong công tác bảo tồn và phát triển bền vững kinh tế biển của nước ta.

Bằng cách nâng cao nhận thức, thay đổi tư duy, cách tiếp cận, với quyết tâm cao và nỗ lực lớn của các cấp, các ngành, cộng đồng, nhất là cộng đồng dân cư ven biển trong việc triển khai Nghị quyết số 36, thực hiện các cam kết quốc tế về biển và đại dương, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được mục tiêu gia tăng diện tích biển nước ta được bảo tồn nhằm phát triển bền vững kinh tế biển vào năm 2030; kiến tạo không gian phát triển mới, bảo vệ, bảo tồn biển quốc gia, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta./.

Tạ Đình Thi // https://www.tapchicongsan.org.vn

—————————

(1) Luật số 18/2017/QH14, Luật Thủy sản, được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 4, ngày 21-11-2017
(2) Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, năm 2019, vùng ven biển của Việt Nam có 323 điểm du lịch, chiếm 61,5% số điểm du lịch của cả nước. Doanh thu du lịch lữ hành của 28 tỉnh, thành phố ven biển của Việt Nam tăng từ 21,9 nghìn tỷ đồng năm 2015 lên 32,9 nghìn tỷ đồng năm 2019.
(3) Bao gồm 5 khu bảo tồn biển: Bạch Long Vĩ (thành phố Hải Phòng), Cồn Cỏ  (tỉnh Quảng Trị), Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi), Hòn Cau (tỉnh Bình Thuận), Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang); 4 khu vực biển thuộc vườn quốc gia trong hệ thống rừng đặc dụng: Bái Tử Long (tỉnh Quảng Ninh), Cát Bà (thành phố Hải Phòng), Núi Chúa (tỉnh Ninh Thuận), Côn Đảo (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). 5 khu bảo tồn biển đã được quy hoạch chi tiết, nhưng chưa được thành lập: Cô Tô – Đảo Trần (tỉnh Quảng Ninh), Hòn Mê (tỉnh Thanh Hóa), Nam Yết (tỉnh Khánh Hòa), Phú Quý (tỉnh Bình Thuận), Hải Vân – Sơn Trà (thành phố Đà Nẵng – tỉnh Thừa Thiên Huế); 2 vùng biển đã được quản lý, hoạt động, như khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm (tỉnh Quảng Nam), vịnh Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa), nhưng chưa có quyết định thành lập của cấp có thẩm quyền.
(4) Báo cáo tại Hội nghị Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản vì ngành thủy sản xanh và phát triển bền vững do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức ngày 23-12-2023 tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
(5) Tính đến tháng 4-2023, theo Marine Protection Atlas (MPAs), https://mpatlas.org/. Trên thế giới có các khu bảo tồn biển lớn ở Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương và Đại Tây Dương trong một số vùng đặc quyền kinh tế của  Ô-xtrây-li-a và các vùng lãnh thổ hải ngoại của Pháp, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, với diện tích lớn (990.000km2 hoặc lớn hơn) được mở rộng từ năm 2012, như Natural Park of the Coral Sea,  Pacific Remote Islands Marine National Monument, Coral Sea Commonwealth Marine Reserve and South Georgia and the South Sandwich Islands Marine Protected Area, chiếm 2,07% diện tích đại dương trên thế giới.

Views: 750

The post Bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển, thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát triển bền vững kinh tế biển appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>