Biển đảo đất liền Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/bien-dao-dat-lien Cổng Vào Tri Thức Tue, 06 Aug 2024 02:33:46 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/wp-content/uploads/2024/12/cropped-logotvbt-32x32.png Biển đảo đất liền Archives - Thư Viện Tỉnh Bình Thuận https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tag/bien-dao-dat-lien 32 32 Điểm tựa vững chắc cho ngư dân vươn khơi, bám biển https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/diem-tua-vung-chac-cho-ngu-dan.html Tue, 06 Aug 2024 02:33:46 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28770 Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền ĐIỂM TỰA VỮNG CHẮC CHO NGƯ

The post Điểm tựa vững chắc cho ngư dân vươn khơi, bám biển appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền

ĐIỂM TỰA VỮNG CHẮC CHO NGƯ DÂN VƯƠN KHƠI, BÁM BIỂN

Cùng với triển khai đồng bộ các biện pháp công tác biên phòng, hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới, hàng năm, Đồn Biên phòng Mũi Né, BĐBP Bình Thuận còn chủ động xây dựng và bổ sung kế hoạch, tổ chức huấn luyện, nâng cao khả năng đi biển và xử lý các tình huống trong phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, phòng chống cháy nổ, cháy rừng và tìm kiếm cứu nạn; sẵn sàng lực lượng, phương tiện cơ động thực hiện nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Mũi Né tham gia di dời tài sản của ngư dân lên điểm an toàn tránh bão. Ảnh: Xuân Dương

Chúng tôi gặp ông Võ Hữu Tâm, chủ tàu đánh cá, trú tại khu phố 15, phường Mũi Né, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận tại Trạm Kiểm soát Biên phòng Mũi Né để làm các thủ tục cần thiết cho người và phương tiện của ông ngày mai ra biển. Tại đây, Thượng úy Lê Thanh Tùng, Trạm trưởng Trạm Kiểm soát Biên phòng Mũi Né và ông Tâm tranh thủ thời gian trao đổi thông tin, nắm tình hình về kết quả trong lao động đánh bắt thủy sản của bà con ngư dân; tình hình khí hậu, thời tiết trên biển thời gian gần đây có những diễn biến bất thường so với những năm trước; các hoạt động qua lại trên vùng biển tỉnh Bình Thuận của các loại tàu thuyền khác…

“Chúng tôi thường xuyên được cán bộ Đồn Biên phòng Mũi Né tuyên truyền, nhắc nhở như đảm bảo các trang thiết bị an toàn cho người, phương tiện, chuẩn bị đầy đủ các loại giấy tờ, thủ tục, đánh bắt không vi phạm các quy định của pháp luật… Nếu trên biển đang có sóng to, gió lớn, áp thấp nhiệt đới, tin bão xa, ngư dân gặp khó khăn thì trạm kiểm soát Biên phòng sẽ thông báo cho bà con ngư dân chủ động phòng tránh. Là chủ tàu, tôi cũng yêu cầu thuyền trưởng sử dụng thiết bị máy Icom đường dài thông báo cho các tàu khác trên biển để cùng nắm, cùng di chuyển vào nơi tránh trú an toàn. Trên biển nếu có phương tiện nào đó không may gặp tai nạn như hư hỏng máy, người bị tai nạn lao động cần hỗ trợ thì đồn Biên phòng thường huy động và sử dụng tàu đánh cá của tôi để ra biển phối hợp cứu hộ, cứu nạn giúp ngư dân” – Ông Võ Hữu Tâm cho biết.

Được biết, trên địa bàn Đồn Biên phòng Mũi Né quản lý có trên 300 phương tiện, trong đó, 52 phương tiện có chiều dài trên 15m đang hoạt động đánh bắt thủy sản trên các vùng biển. Trong quá trình làm các thủ tục kiểm tra, kiểm soát Biên phòng theo quy định, đơn vị đã kết hợp tuyên truyền, vận động bà con ngư dân ra vào, làm ăn trên biển chấp hành nghiêm các quy định của Nhà nước về đảm bảo trang thiết bị an toàn cho người, phương tiện; đảm bảo thủ tục giấy tờ, khai thác, đánh bắt đúng ngành nghề, đúng vùng, tuyến được phép hoạt động; nghiêm cấm không được đánh bắt vi phạm các quy định của pháp luật. Quá trình hoạt động trên biển, có phát hiện gì, thuyền trưởng các tàu đánh cá đều điện vào bờ thông báo cho Trạm Kiểm soát Biên phòng Mũi Né.

Điển hình, chiều ngày 2/6, khi đang hoạt động tại vùng biển cách Mũi Né khoảng 22 hải lý về hướng đông Nam thì tàu cá BT 95947 TS do ông Lê Văn Ty, trú tại ấp 3, xã Bình Thới, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre làm thuyền trưởng bị hư máy, trên tàu có 10 người. Nhận được thông tin, Đồn Biên phòng Mũi Né sử dụng hệ thống thông tin liên lạc kêu gọi các tàu đánh cá hoạt động gần khu vực tàu BT 95947 TS để hỗ trợ.

Sau đó, có 3 tàu đánh khác cùng ở Bến Tre đã kịp thời hỗ trợ, lai dắt vào bờ để sửa chữa. Khi vào đến khu vực Hòn Lao, Mũi Né, do không biết luồng lạch, các tàu đã đi vào bãi đá, bị mắc cạn. Các tàu lai dắt hoạt động được đã thoát ra ngoài, còn tàu BT 95947 TS do bị hỏng máy không thoát ra ngoài được và bị sóng đánh chìm ngập nửa thân tàu. Đồn Biên phòng Mũi Né lập tức triển khai lực lượng, phối hợp với UBND phường Mũi Né huy động các tàu cá của ngư dân địa phương tổ chức trục vớt, kéo tàu cá bị chìm vào bờ để sửa chữa.

Thượng úy Lê Thanh Tùng phát tờ rơi tuyên truyền cho ngư dân chấp hành nghiêm các quy định khi hoạt động trên biển. Ảnh: Lê Khoa

Trước đó, khoảng 18 giờ, ngày 12/2, tàu cá BV 90981 TS, công suất 480 CV, do ông Trần Ngọc Hữu (trú tại thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) làm thuyền trưởng, đang neo đậu cách bờ khoảng 1 hải lý thì bất ngờ bốc cháy, trên tàu có 3 người. Tại thời điểm xảy ra cháy, thời tiết trên biển gió lớn nên đám cháy lan nhanh và bùng phát mạnh. Tiếp nhận vụ việc, Đồn Biên phòng Mũi Né đã nhanh chóng triển khai 10 cán bộ, chiến sĩ, huy động 3 xuồng máy, 3 tàu cá của ngư dân đang neo đậu trong khu vực tàu cá bị nạn, cùng phối hợp với các lực lượng, chính quyền địa phương tiến hành dập lửa. Tuy nhiên, gió lớn, lửa bùng phát dữ dội, trong khi tàu cá neo đậu cách bờ khoảng 1 hải lý nên các phương án tiếp cận và triển khai phương án dập lửa không thành công. Hậu quả, tàu cá BV 90981 TS bị cháy hoàn toàn và chìm. Tại thời điểm tàu cá BV 90981 TS bị cháy, trên tàu có khoảng 7 đến 8 ngàn lít dầu. Thiệt hại tài sản khoảng 3,6 tỷ đồng, rất may không thiệt hại về người.

Nhằm giảm thiểu tai nạn đến mức thấp nhất cho ngư dân và kịp thời ứng cứu khi có tai nạn xảy ra trên biển, Đồn Biên phòng Mũi Né thường xuyên tổ chức huấn luyện các bước tiến hành cơ động, cách tiếp cận mục tiêu và cứu vớt người trên biển trong điều kiện sóng gió cấp 6, cấp 7. Bên cạnh đó, đơn vị xây dựng và duy trì hoạt động hiệu quả các đội tàu thuyền an toàn, sẵn sàng ra biển ứng cứu khi có vụ việc xảy ra.

Theo Thượng úy Lê Thanh Tùng, năm nay, tuy sản lượng và nguồn doanh thu ít hơn so với những năm trước, do nguồn lợi thủy sản ngày càng cạn kiệt, nhưng ngư dân địa phương vẫn khắc phục khó khăn, an tâm bám biển. Sau mỗi chuyến đi biển trở về, ngư dân vẫn dành thời gian tham gia đầy đủ các buổi tuyên truyền của Đồn Biên phòng Mũi Né. Tại đây, ngư dân được hướng dẫn sơ đồ về vùng biển của Việt Nam, vùng được đánh bắt và trách nhiệm của mỗi ngư dân đi biển với việc tham gia bảo vệ chủ quyền vùng biển.

Thượng tá Bùi Thanh Dũ, Đồn trưởng Đồn Biên phòng Mũi Né cho biết: “Thời gian tới, đơn vị đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức, tích cực phổ biến kiến thức về bão, sạt lở đất, đá, xói mòn… để mọi người dân nâng cao khả năng tự phòng, tránh; đồng thời, tuyên truyền đến các chủ phương tiện tham gia bảo hiểm người, phương tiện, thông báo tần số thông tin liên lạc, đảm bảo an toàn tàu thuyền, con người khi đi đánh bắt hải sản trên biển. Cùng với đó, đảm bảo tốt công tác hậu cần, sẵn sàng lực lượng, phương tiện, trang bị theo phương châm “4 tại chỗ”, cơ động xử lý mọi tình huống xảy ra trên biển”.

Lê Khoa // https://www.bienphong.com.vn/

Views: 373

The post Điểm tựa vững chắc cho ngư dân vươn khơi, bám biển appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Ý chí thống nhất, kiên định về biển Đông https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/y-chi-kien-dinh-ve-bien-dong.html Tue, 06 Aug 2024 02:13:22 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28766 Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền Ý CHÍ THỐNG NHẤT, KIÊN ĐỊNH

The post Ý chí thống nhất, kiên định về biển Đông appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền

Ý CHÍ THỐNG NHẤT, KIÊN ĐỊNH VỀ BIỂN ĐÔNG

Cuối tháng 7 vừa qua, vấn đề biển Đông tiếp tục trở thành chủ đề quan trọng được thảo luận trong các chương trình nghị sự của quốc tế và khu vực. Trong đó, tất cả các bên đều thống nhất ý chí chung về hòa bình, ổn định và thịnh vượng trong khu vực.

Hội nghị cấp ngoại trưởng ASEAN+3 lần thứ 25 tại Lào, ngày 27/7. Ảnh: Bộ Ngoại giao

Phải thượng tôn luật pháp quốc tế

Đầu tuần này, tại Thủ đô Tokyo, Nhật Bản, các ngoại trưởng của 4 nước Bộ tứ (QUAD) gồm Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ đã nhóm họp theo sự chủ trì của Ngoại trưởng Nhật Bản Yoko Kamikawa. Đây là cuộc họp đầu tiên cấp ngoại trưởng của nhóm sau 4 năm.

Tại cuộc họp, các ngoại trưởng tái khẳng định cam kết hợp tác chặt chẽ nhằm hiện thực hóa khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Các ngoại trưởng nhất trí cung cấp nhiều sản phẩm chung của khu vực trên các lĩnh vực nhằm hiện thực hóa một cộng đồng quốc tế cùng tồn tại và cùng thịnh vượng. Các bên cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ luật pháp quốc tế đối với duy trì trật tự hàng hải.

Sau cuộc đối thoại, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken, Ngoại trưởng Nhật Bản Kamikawa Yoko, Ngoại trưởng Australia Penny Wong và Ngoại trưởng Ấn Độ Subrahmanyam Jaishankar ra tuyên bố chung kêu gọi thiết lập một khu vực Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Đồng thời bày tỏ lập trường về tình hình biển Đông. Tuyên bố chung nhấn mạnh: “Chúng tôi vô cùng quan ngại về tình hình ở biển Hoa Đông và biển Đông, đồng thời tái khẳng định lập trường phản đối mạnh mẽ đối với bất kỳ hành động đơn phương nào tìm cách thay đổi nguyên trạng bằng vũ lực”.

Những người đứng đầu ngành ngoại giao của 4 quốc gia tiếp tục bày tỏ mối quan ngại nghiêm trọng về hoạt động quân sự hóa các thực thể tranh chấp và các động thái cưỡng ép và đe dọa ở biển Đông. Nhóm Bộ tứ cam kết thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực an ninh mạng để bảo vệ chuỗi cung ứng và cơ sở hạ tầng quan trọng, bao gồm cả cáp ngầm.

Về hợp tác trong khu vực, các bên tái khẳng định sự ủng hộ vững chắc vai trò trung tâm và tính thống nhất của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), cũng như thúc đẩy Tầm nhìn ASEAN về khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (AOIP); cam kết hỗ trợ các quốc đảo Thái Bình Dương đáp ứng các mục tiêu của Chiến lược 2050 của Diễn đàn quần đảo Thái Bình Dương (PIF)…

Tái khẳng định sự ủng hộ đối với AOIP

Trước đó, ngày 27/7, tại Thủ đô Viêng Chăn, Lào diễn ra Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 57 (AMM-57) và các hội nghị liên quan. Một trong những nội dung quan trọng được nêu bật tại các hội nghị là thúc đẩy hòa bình, ổn định trong khu vực. Trong đó, biển Đông là chủ đề thảo luận quan trọng.

Tàu thuyền của ngư dân Việt Nam trên vùng biển tỉnh Bình Định. Ảnh: Thanh Trúc

Các quốc gia đã dành nhiều thời gian trao đổi, chia sẻ quan điểm và lập trường về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm, trong đó có biển Đông. Các bên chia sẻ quan ngại về diễn biến phức tạp trên thực địa và ảnh hưởng đối với hòa bình, an ninh, ổn định và phát triển, bày tỏ ủng hộ cách tiếp cận cân bằng và khách quan của ASEAN, nhấn mạnh các nguyên tắc như tuân thủ luật pháp quốc tế, thực hiện tự kiềm chế, giải quyết hòa bình các tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.

AMM-57 cũng thúc đẩy việc hoàn thiện Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở biển Đông (COC) hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế cũng như quan trọng của an toàn và an ninh hàng hải, tự do hàng hải và hàng không ở biển Đông, giải quyết hòa bình các tranh chấp theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS năm 1982.

Theo một tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ, tham dự AMM-57, Ngoại trưởng Antony Blinken nhấn mạnh việc tuân thủ luật pháp quốc tế ở biển Đông, nơi lượng thương mại hơn 3.000 tỷ USD đi qua mỗi năm. Ngoại trưởng Mỹ cũng nhấn mạnh cam kết của Mỹ đối với vai trò trung tâm của ASEAN và ủng hộ Tầm nhìn ASEAN về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.

Tại AMM-57, Ngoại trưởng Indonesia Retno LP Marsudi cho biết, một bước đi sai lầm ở biển Đông sẽ biến một tia lửa nhỏ thành một cơn bão lửa đáng sợ. Do đó, các quốc gia thành viên ASEAN phải đoàn kết, các bên giải quyết hòa bình các tranh chấp.

Tại Hội nghị cấp ngoại trưởng ASEAN+3 (bao gồm ASEAN và 3 đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản) lần thứ 25 diễn ra tại Lào vào ngày 27/7, Ngoại trưởng Indonesia cũng kêu gọi hội nghị tiếp tục đóng vai trò là động lực chính cho hòa bình, ổn định và thịnh vượng trong khu vực.

Theo bà Retno, ASEAN đã và đang đóng góp vào tăng trưởng kinh tế toàn cầu, trong đó, dân số Đông Nam Á, chủ yếu là thanh niên, chiếm 1/3 toàn cầu. Bà Retno nhấn mạnh, những tiềm năng to lớn mà ASEAN khai thác sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu không có hòa bình và ổn định.

Các nước đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản giúp duy trì mức tăng trưởng kinh tế ưu tiên của khu vực là 4,5% bằng cách hỗ trợ chuyển đổi năng lượng và kinh tế số, tận dụng tối đa Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực và hợp tác trong khuôn khổ Tầm nhìn ASEAN về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (AOIP).

Theo bà Retno, để hiện thực hóa mục tiêu đưa ra tại Diễn đàn Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương ASEAN năm 2023, các doanh nghiệp Indonesia trong Hội đồng Tư vấn kinh doanh ASEAN đang chuẩn bị thành lập Mạng lưới doanh nghiệp Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương ASEAN.

Cũng tại hội nghị ASEAN+3 này, ngoại trưởng các quốc gia thành viên ASEAN đánh giá cao 3 nước đối tác đã cam kết kiên quyết ưu tiên đối thoại trong nỗ lực thu hẹp những bất đồng.

Về phần mình, ngoại trưởng 3 nước đối tác tại khu vực Đông Á tái khẳng định sự ủng hộ đối với AOIP, coi đây là một nền tảng toàn diện và nhấn mạnh sự cần thiết phải giữ gìn hòa bình và ổn định trong khu vực, với mục tiêu cuối cùng là tạo ra một khu vực tự cường.

Tuyên bố Chủ tịch sau khi kết thúc hội nghị đã đánh giá cao nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau và cam kết tăng cường khả năng phục hồi của khu vực bằng cách củng cố chuỗi cung ứng khu vực và thúc đẩy hợp tác trong nhiều lĩnh vực.

Các Bộ trưởng Ngoại giao tham gia hội nghị cũng đã nhất trí theo đuổi việc thông qua Tuyên bố ASEAN+3 về tăng cường kết nối các chuỗi cung ứng và công nghiệp khu vực trong Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 45 vào tháng 10 năm nay.

Thanh Trúc // https://www.bienphong.com.vn

Views: 374

The post Ý chí thống nhất, kiên định về biển Đông appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Khai thác hải sản xa bờ gắn liền với bảo vệ chủ quyền biển đảo https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/khai-thac-hai-san-xa-bo.html Tue, 06 Aug 2024 01:58:12 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28762 Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền KHAI THÁC HẢI SẢN XA BỜ

The post Khai thác hải sản xa bờ gắn liền với bảo vệ chủ quyền biển đảo appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền

KHAI THÁC HẢI SẢN XA BỜ GẮN LIỀN VỚI BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO

Biển và kinh tế biển có vị trí đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia có biển trong quá trình phát triển. Trong điều kiện mới, nhu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những áp lực rất lớn đối với các quốc gia về nguyên liệu, vận tải và không gian sinh sống thì vai trò của kinh tế biển càng được thể hiện rõ nét.

Tàu đánh bắt xa bờ. Ảnh tư liệu

Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng rất lớn về kinh tế biển, với bờ biển dài trên 3.260 km, vùng biển rộng trên 1.000.000 km2, biển đã đem lại cho đất nước nhiều nguồn lợi lớn từ khai thác khoáng sản, phát triển kinh tế hàng hải, khai thác hải sản, kinh tế đảo, du lịch biển và phát triển các khu kinh tế ven biển. Tỉnh Bình Thuận có ngư trường khai thác thủy sản rộng 52.000 km2, có bờ biển dài 192 km, có đảo Phú Quý ngoài khơi nằm cách thành phố Phan Thiết 120 km và đảo Hòn Hải là điểm để xác định đường cơ sở của vùng biển Việt Nam.

Vùng biển, đảo và ven biển của tỉnh Bình Thuận không chỉ giàu về nguồn lợi thủy sản mà còn có tiềm năng rất lớn để phát triển du lịch biển, dịch vụ cảng biển và kinh tế đảo. Bao đời nay, biển luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của người dân Bình Thuận. Hiện nay, kinh tế biển của tỉnh Bình Thuận đã có bước chuyển biến đáng kể, cơ cấu ngành nghề đang có sự thay đổi lớn. Ngoài các ngành nghề truyền thống nay đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế biển gắn với công nghệ, kỹ thuật hiện đại như khai thác dầu khí, đánh bắt xa bờ, vận tải biển, du lịch biển, đảo. Trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ XIII đã khẳng định: “khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiềm năng, lợi thế, chủ động hội nhập, phát triển mạnh kinh tế biển, du lịch, năng lượng, thúc đẩy kinh tế tỉnh nhà phát triển nhanh và bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.

Theo đó, tỉnh đã tập trung phát triển mạnh kinh tế biển và là một trong ba ngành kinh tế động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh nhà. Tỉnh cũng đã tập trung phát triển khai thác xa bờ gắn với dịch vụ hậu cần, tổ đội sản xuất trên biển. Nhằm hỗ trợ ngư dân trong việc đánh bắt xa bờ, tỉnh Bình Thuận đã hình thành và phát triển mạnh đội tàu hậu cần hải sản. Đây là mô hình tàu hậu cần phát triển mạnh và tiên phong trong cả nước. Đội tàu này hàng ngày thu mua hải sản và cung cấp các nhu yếu phẩm cần thiết để các đội tàu đánh bắt xa bờ yên tâm bám biển. Bên cạnh đó, việc hình thành các tổ, đội sản xuất trên biển cũng được chú trọng đầu tư và phát triển. Cùng với các Tổ đoàn kết do địa phương thành lập, một số tàu tự liên kết thành các nhóm khai thác cùng nghề hoặc cùng ngư trường hoạt động hiệu quả trong thời gian qua. Việc phát triển đội tàu hậu cần và liên kết đánh bắt đang tạo điều kiện thuận lợi cho ngư dân bám biển dài ngày, tiết kiệm chi phí sản xuất thay cho việc phải vào bờ sau mỗi chuyến đi.

Ảnh tư liệu.

Đối với ngư dân của tỉnh đã tận dụng nhiều nguồn vốn đầu tư để đóng tàu thuyền công suất lớn, phục vụ khai thác xa bờ gắn với dịch vụ hậu cần, chế biến hải sản trên biển. Nhờ đó, đội tàu công suất lớn của tỉnh đang ngày càng hoàn thiện và phát triển mạnh. Các tàu cá đóng mới, nâng cấp công suất lớn đảm chất lượng và từng bước phát huy hiệu quả. Số lượng tàu cá đóng mới được đầu tư đồng bộ, hiện đại, khuyến khích được các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển thủy sản, góp phần quan trọng vào việc tái cơ cấu ngành khai thác thủy sản và tổ chức lại sản xuất trên biển. Các chính sách khuyến khích, hỗ trợ khai thác, nuôi trồng hải sản và dịch vụ khai thác hải sản trên các vùng biển xa của Trung ương và địa phương đã mang lại những hiệu quả thiết thực. Phải khẳng định rằng, phát triển mạnh đội tàu đánh bắt xa bờ gắn với tàu hậu cần thời gian qua đã đạt hiệu quả cao với số lượng tàu thuyền tham gia lớn được ngư dân tích cực ủng hộ, vươn khơi bám biển, nâng cao đời sống và góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Phan Liên // https://baobinhthuan.com.vn

Views: 375

The post Khai thác hải sản xa bờ gắn liền với bảo vệ chủ quyền biển đảo appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Tuyên bố của Bộ Ngoại giao về việc Việt Nam nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ở Khu vực Giữa Biển Đông https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/tuyen-bo-cua-bo-ngoai.html Fri, 19 Jul 2024 08:48:25 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28458 Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền TUYÊN BỐ CỦA BỘ NGOẠI GIAO

The post Tuyên bố của Bộ Ngoại giao về việc Việt Nam nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ở Khu vực Giữa Biển Đông appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền

TUYÊN BỐ CỦA BỘ NGOẠI GIAO VỀ VIỆC VIỆT NAM NỘP ĐỆ TRÌNH RANH GIỚI THỀM LỤC ĐỊA MỞ RỘNG Ở KHU VỰC GIỮA BIỂN ĐÔNG

Theo phóng viên TTXVN tại New York, ngày 17/7 (theo giờ địa phương), đại diện Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trao cho Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa Liên hợp quốc (CLCS) Hồ sơ Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam tại Khu vực Giữa Biển Đông (VNM‑C).

Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại LHQ, cùng Lãnh đạo Đoàn công tác của Bộ Ngoại giao, tại buổi làm việc với Vụ trưởng Vụ các vấn đề Đại dương và Luật biển của LHQ Vladimir Jares (thứ 2 từ phải qua). Ảnh: Thanh Tuấn/Phóng viên TTXVN tại New York (Mỹ)

Nhân sự kiện này, Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố như sau:

1. Là quốc gia lục địa tiếp giáp với Biển Đông và là quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), căn cứ vào các quy định liên quan của UNCLOS và phù hợp với điều kiện địa lý tự nhiên của mình, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý, khoa học để khẳng định Việt Nam có quyền có thềm lục địa tự nhiên mở rộng ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam. Năm 2009, Việt Nam đã hoàn thành 2 Đệ trình quốc gia: Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng Khu vực Bắc Biển Đông (VNM‑N), Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng Khu vực Giữa Biển Đông (VNM‑C); đồng thời hợp tác cùng Ma-lai-xi-a xây dựng Đệ trình chung Ranh giới thềm lục địa mở rộng đối với Khu vực Nam Biển Đông. Tháng 5/2009, Việt Nam đã nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng Khu vực Bắc Biển Đông và cùng với Malaysia nộp Đệ trình chung Ranh giới thềm lục địa mở rộng đối với Khu vực Nam Biển Đông. Trong Công hàm gửi CLCS khi đó, Việt Nam đã khẳng định sẽ nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng Khu vực Giữa Biển Đông vào thời điểm sau (nêu tại Công hàm số CLCS.37.2009.LOS ngày 11/5/2009 của Tổng Thư ký Liên hợp quốc gửi tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc).

2. Sau khi một số quốc gia ven biển liên quan ở Biển Đông đã nộp các Đệ trình riêng của mình từ năm 2019 đến nay, việc Việt Nam nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng Khu vực Giữa Biển Đông là nhằm bảo đảm các quyền hợp pháp của Việt Nam đối với phần thềm lục địa mở rộng của Việt Nam tại khu vực giữa Biển Đông mà Việt Nam hoàn toàn có quyền được hưởng phù hợp với Điều 76 của UNCLOS. Việt Nam khẳng định việc Việt Nam nộp Đệ trình tại Khu vực Giữa Biển Đông không ảnh hưởng đến việc phân định biển giữa Việt Nam với các quốc gia ven biển liên quan ở Biển Đông trên cơ sở UNCLOS.

3. Nhân dịp này, Việt Nam khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế và các quyền của Việt Nam đối với các vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông được xác lập phù hợp với UNCLOS. Đồng thời, Việt Nam cam kết sẵn sàng giải quyết và kiểm soát các tranh chấp, bất đồng về chủ quyền lãnh thổ liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các tranh chấp về phân định biển giữa Việt Nam và các quốc gia ven biển liên quan ở Biển Đông bằng các biện pháp hoà bình, đồng thời cùng các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế, duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không và phát triển bền vững ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS./.  

Thanh Tuấn, Quang Huy // https://nvsk.vnanet.vn

Views: 1119

The post Tuyên bố của Bộ Ngoại giao về việc Việt Nam nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ở Khu vực Giữa Biển Đông appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Việt Nam nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ở Khu vực Giữa Biển Đông https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/ranh-gioi-them-luc-dia-mo-rong.html Fri, 19 Jul 2024 08:47:35 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28455 Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền VIỆT NAM NỘP ĐỆ TRÌNH RANH

The post Việt Nam nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ở Khu vực Giữa Biển Đông appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền

VIỆT NAM NỘP ĐỆ TRÌNH RANH GIỚI THỀM LỤC ĐỊA MỞ RỘNG Ở KHU VỰC GIỮA BIỂN ĐÔNG

Ngày 17/7/2024 (theo giờ Bờ Đông của Mỹ), tại trụ sở Liên hợp quốc (LHQ) ở New York, Đại sứ Đặng Hoàng Giang – Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam tại LHQ – cùng Đoàn công tác của Bộ Ngoại giao do Đại sứ Trịnh Đức Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia làm Trưởng đoàn, đã chính thức nộp Hồ sơ đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam ở Khu vực Giữa Biển Đông lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa LHQ (CLCS). Cùng ngày, Bộ Ngoại giao đã ra Tuyên bố về việc Việt Nam nộp Đệ trình nêu trên.

Việt Nam chính thức nộp Hồ sơ đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam ở Khu vực Giữa Biển Đông lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa LHQ. Ảnh: Thanh Tuấn/Phóng viên TTXVN tại New York (Mỹ)

Theo phóng viên TTXVN tại New York, việc nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý là để thực hiện quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), được quy định tại Điều 76 của UNCLOS. Theo đó, khi quốc gia ven biển có thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải, quốc gia ven biển cần phải nộp Đệ trình về các thông tin và dữ liệu liên quan để Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa LHQ xem xét và ra khuyến nghị về ranh giới của thềm lục địa mở rộng.

Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở Khu vực Giữa Biển Đông là đệ trình thứ ba của Việt Nam. Tháng 5/2009, Việt Nam đã nộp Đệ trình riêng về Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở Khu vực Bắc Biển Đông và Đệ trình chung với Malaysia về Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý đối với Khu vực Nam Biển Đông.

Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại LHQ, chính thức nộp Hồ sơ đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam ở Khu vực Giữa Biển Đông lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa LHQ. Ảnh: Thanh Tuấn/Phóng viên TTXVN tại New York (Mỹ)

Trong Công hàm gửi Tổng Thư ký LHQ về Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở Khu vực Giữa Biển Đông, Việt Nam một lần nữa khẳng định việc nộp Đệ trình này sẽ không ảnh hưởng tới công tác phân định biển giữa Việt Nam và các nước ven biển liên quan trên cơ sở UNCLOS.

Nhân dịp này, Đại sứ Đặng Hoàng Giang và Đoàn công tác của Bộ Ngoại giao Việt Nam bày tỏ cảm ơn sự hỗ trợ của LHQ trong quá trình Việt Nam nộp các Đệ trình của mình theo đúng những quy định có liên quan của UNCLOS và CLCS.

Cùng ngày, Phái đoàn thường trực Việt Nam tại LHQ đã gửi Công hàm tới Tổng Thư ký LHQ để bày tỏ lập trường của Việt Nam về việc Philippines nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở Biển Đông vào ngày 14/6/2024./.

Thanh Tuấn // https://nvsk.vnanet.vn

Tuyên bố của Bộ Ngoại giao về việc Việt Nam nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ở Khu vực Giữa Biển Đông

Views: 746

The post Việt Nam nộp Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ở Khu vực Giữa Biển Đông appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Quan hệ Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài Việt Nam – Campuchia https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/quan-he-hop-tac-viet-nam-campuchia.html Wed, 17 Jul 2024 04:02:13 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28411 Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền QUAN HỆ HỢP TÁC LÁNG GIỀNG

The post Quan hệ Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài Việt Nam – Campuchia appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền

QUAN HỆ HỢP TÁC LÁNG GIỀNG TỐT ĐẸP, ĐOÀN KẾT HỮU NGHỊ TRUYỀN THỐNG, ỔN ĐỊNH LÂU DÀI VIỆT NAM – CAMPUCHIA

Tiếp sau chuyến thăm cấp Nhà nước đến Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Chủ tịch nước Tô Lâm thăm cấp Nhà nước đến Vương quốc Campuchia theo lời mời của Quốc vương Campuchia Preah Bat Samdech Preah Boromneath Norodom Sihamoni vào ngày 12 và 13/7/2024. Chuyến thăm có ý nghĩa hết sức quan trọng, là dấu mốc để củng cố, vun đắp và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ giữa hai nước Việt Nam-Campuchia theo phương châm “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”.

Bộ Ngoại giao // https://infographics.vn

Views: 374

The post Quan hệ Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài Việt Nam – Campuchia appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Một số dấu mốc quan trọng trong quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/quan-he-huu-nghi-viet-nam-lao.html Wed, 17 Jul 2024 03:54:40 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28407 Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền MỘT SỐ DẤU MỐC QUAN TRỌNG

The post Một số dấu mốc quan trọng trong quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền

MỘT SỐ DẤU MỐC QUAN TRỌNG TRONG QUAN HỆ HỮU NGHỊ VĨ ĐẠI, ĐOÀN KẾT ĐẶC BIỆT VÀ HỢP TÁC TOÀN DIỆN VIỆT NAM – LÀO

Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Thongloun Sisoulith và Quốc vương Campuchia Preah Bat Samdech Preah Boromneath Norodom Sihamoni, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tô Lâm thăm cấp Nhà nước tới nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia từ ngày 11-13/7/2024. Đây là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của Chủ tịch nước Tô Lâm trên cương vị mới. Chuyến thăm Lào diễn ra trong bối cảnh quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Lào đang phát triển tốt đẹp. Chuyến thăm góp phần khẳng định quyết tâm vun đắp cho sự tin cậy chiến lược giữa hai Đảng, hai nước và đưa mối quan hệ hợp tác giữa hai nước lên một tầm cao mới.

Bộ Ngoại giao // https://infographics.vn

Views: 375

The post Một số dấu mốc quan trọng trong quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Chặng đường định rõ cương vực đất nước và bảo vệ biên giới lãnh thổ Việt Nam. Bài 4: Giá trị và giải pháp phát huy hiệu quả Luật Biên giới quốc gia sau 20 năm ban hành https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/bien-gioi-lanh-tho-viet-nam-bai-4.html Tue, 16 Jul 2024 08:05:09 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28363 Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền BÀI 4: GIÁ TRỊ VÀ GIẢI

The post Chặng đường định rõ cương vực đất nước và bảo vệ biên giới lãnh thổ Việt Nam. Bài 4: Giá trị và giải pháp phát huy hiệu quả Luật Biên giới quốc gia sau 20 năm ban hành appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền

BÀI 4: GIÁ TRỊ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY HIỆU QUẢ LUẬT BIÊN GIỚI QUỐC GIA SAU 20 NĂM BAN HÀNH

Bài 1: Chặng đường dài bảo vệ biên giới lãnh thổ Việt Nam

Bài 2: Việt Nam tích cực, chủ động, sáng tạo giải quyết tranh chấp biên giới

Bài 3: Bảo vệ biên giới lãnh thổ: Đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết

Sau 20 năm được ban hành, đến nay, Luật Biên giới quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị, pháp lý và kinh tế – xã hội đối với công tác xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ biên giới quốc gia.

Luật Biên giới quốc gia khẳng định biên giới quốc gia Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Sự ra đời của Luật đã thể chế đầy đủ, toàn diện các chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh biên giới quốc gia.

Luật Biên giới quốc gia đã pháp điển hóa các văn bản pháp lý và Điều ước quốc tế về biên giới, lãnh thổ; là cơ sở cho việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch xây dựng, phát triển khu vực biên giới vững mạnh toàn diện về chính trị, kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh; đặc biệt trong đầu tư xây dựng công trình biên giới, mốc quốc giới để quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.

Luật cũng xác định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành, các lực lượng trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới; trong đó xác định rõ bộ đội biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, chủ trì, phối hợp với các cấp, các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới (khoản 2 Điều 31).

Hiện nay, cùng với Luật Biên phòng Việt Nam, Luật Biên giới quốc gia đã tạo cơ sở pháp lý rất vững chắc, đầy đủ để các cấp, các ngành, các lực lượng huy động nguồn lực của Nhà nước, xã hội trong xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới ngày càng vững mạnh; góp phần củng cố quốc phòng – an ninh, đối ngoại và phát triển kinh tế – xã hội ở khu vực biên giới.

Thiếu tướng Hoàng Hữu Chiến – Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ đội Biên phòng cho biết: “Có thể khẳng định việc xây dựng và triển khai thực hiện Luật Biên giới quốc gia đã tạo động lực phát triển mới trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, làm cho biên giới giàu mạnh, bền vững, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân ở khu vực biên giới ngày càng được cải thiện; tạo tiềm lực về chính trị, tinh thần, quân sự, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, quản lý, bảo vệ Biên giới quốc gia trong tình hình mới”.

Sau 20 năm thi hành Luật Biên giới quốc gia, giá trị về pháp lý và những thành tựu thực tiễn của Luật là rất lớn.

Trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, cùng với các hiệp định, thỏa thuận về biên giới, lãnh thổ, vùng biển, quản lý biên giới, khu vực biên giới, cửa khẩu giữa Việt Nam và các nước láng giềng được ký kết đầy đủ và hợp tác toàn diện; hệ thống pháp luật về biên giới quốc gia, biên phòng được ban hành kịp thời, đồng bộ, khép kín đã phát triển tiềm lực quốc phòng – an ninh ở khu vực biên giới, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để Nhà nước, các cấp, các ngành, chính quyền địa phương, lực lượng nòng cốt, chuyên trách thực hiện xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới, vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Trên tuyến biên giới đất liền, đã ký kết 7 văn kiện pháp lý về biên giới, phân giới cắm mốc được hơn 5.000 cột mốc, cọc dấu. Là cơ sở pháp lý để bộ đội biên phòng và các lực lượng chức năng tổ chức duy trì kiểm tra, kiểm soát tại hơn 200 cửa khẩu, lối mở, đường qua lại trên biên giới đất liền và cảng biển; kiểm tra, kiểm soát gần 800 triệu tấn hàng hóa xuất, nhập khẩu; kiểm tra, kiểm soát, làm thủ tục và đảm bảo an ninh, an toàn cho khoản 15 triệu lượt người xuất, nhập cảnh.

Bộ đội Biên phòng và các lực lượng chức năng đã tổ chức nắm chắc tình hình chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia, vùng biển, tình hình nội, ngoại biên, âm mưu ý đồ, phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, các loại đối tượng, tội phạm; qua đó kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chính quyền địa phương đề ra chủ trương, đối sách đấu tranh ngăn chặn làm thất bại âm mưu, phương thức hoạt động, ý đồ chống phá cách mạng Việt Nam, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, góp phần giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh trật tự ở khu vực biên giới, vùng biển.

Kết quả sau hơn 20 năm thi hành Luật Biên giới quốc gia, bộ đội biên phòng chủ trì, phối hợp với các lực lượng chức năng xử lý gần 60.000 vụ/ hơn 100.000 đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia; hơn 115.000 vụ/hơn 200.000 đối tượng hình sự; xử lý vi phạm hành chính hơn 140.000 vụ/ hơn 250.000 đối tượng với tổng số tiền phạt hơn 200 tỷ đồng.

Trong phát triển kinh tế – xã hội ở khu vực biên giới, trên cơ sở Luật Biên giới quốc gia, Nhà nước đã tập trung đầu tư và huy động các nguồn lực, sức mạnh để phát triển kinh tế, thương mại, an sinh xã hội, thực hiện nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền; qua đó tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.

Đến nay cả nước đã thành lập 15 khu kinh tế ven biển, 26 khu kinh tế cửa khẩu trên biên giới đất liền; có 267 cụm công nghiệp hoạt động ở khu vực biên giới, chiếm 36,6% cụm công nghiệp đang hoạt động trên cả nước; các nhà máy thủy điện, nhiệt điện và năng lượng tái tạo tại các khu vực biên giới đã đóng góp đến 44% tổng sản lượng điện toàn quốc, góp phần củng cố an ninh năng lượng, bảo đảm sản xuất và nâng cao đời sống cho người dân; quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn biên giới được củng cố và giữ vững.

Cùng với việc đầu tư phát triển công nghiệp, Đảng, Nhà nước, địa phương biên giới triển khai gần 300 dự án, chương trình phát triển kinh tế ở khu vực biên giới, xây dựng hơn 200 mô hình giúp dân phát triển kinh tế; phát triển nông thôn mới, xóa nghèo bền vững; thu hẹp chênh lệch vùng miền; đến nay, với hơn 2 triệu hộ/hơn 9 triệu khẩu, đã có 100% các xã, phường, thị trấn biên giới có đường ô tô đến trung tâm và có điện lưới quốc gia, 95% thôn bản được phủ sóng điện thoại di động 94% số hộ thoát nghèo; 95% số hộ thoát cận nghèo.

Ngoài ra, Bộ Quốc phòng, bộ đội biên phòng còn tập trung xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân trong nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân ở khu vực biên giới nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc, nhất là sức mạnh của quần chúng nhân dân khu vực biên giới trong tham gia xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.

Triển khai nội dung trên, hiện nay hơn 10 đề án, dự án trọng điểm đang được triển khai thực hiện ở khu vực biên giới và đang xin chủ trương đầu tư 05 đề án, dự án; đồng thời, các cơ quan, đơn vị bộ đội biên phòng còn đang triển khai thực hiện 19 phong trào, mô hình, chương trình tiêu biểu góp phần quan trọng vào ổn định chính trị, phát triển kinh tế – văn hóa, xã hội và phát huy sức mạnh tổng hợp của các dân tộc, quần chúng nhân dân ở khu vực biên giới trong bảo vệ biên cương của Tổ quốc.

Để tiếp tục phát huy những thành tựu đạt được, bảo đảm giữ vững sự ổn định của biên giới và toàn vẹn lãnh thổ, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện cho phát triển đất nước, Việt Nam cần tăng cường phát huy trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác biên giới lãnh thổ của các cấp, các ngành, các lực lượng và chính quyền địa phương có biên giới để tạo sức mạnh tổng hợp, lâu dài, bền vững trong xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.

Thứ hai, cần tiếp tục tổ chức xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia gắn với các chương trình, mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, xây dựng, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở khu vực biên giới, thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu tiên, ưu đãi tạo điều kiện cho khu vực biên giới phát triển; quan tâm xây dựng khu vực biên giới vững mạnh toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh; gắn phát triển kinh tế – xã hội với củng cố quốc phòng an ninh, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở khu vực biên giới.

Thứ ba, cần nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại Đảng, đối ngoại Nhà nước và đối ngoại nhân dân, phối hợp với các lực lượng, các cấp, các ngành tăng cường quản lý nhà nước về biên giới lãnh thổ, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biên phòng với các nước láng giềng; nhân rộng mô hình kết nghĩa giữa các địa phương, đơn vị và nhân dân hai bên biên giới; triển khai có hiệu quả mô hình hợp tác giữa các lực lượng bảo vệ biên giới Việt Nam với lực lượng hữu quan của các nước láng giềng.

Thứ tư là thường xuyên triển khai công tác tập huấn, bồi dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý biên giới, tập huấn nâng cao nhận thức cho lực lượng quản lý biên giới và cư dân biên giới trong công tác quản lý, bảo vệ biên giới theo các điều ước quốc tế và pháp luật hiện hành của Việt Nam. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu đối với đội ngũ cán bộ làm công tác biên giới lãnh thổ; triển khai hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, Nhà nước, các văn kiện pháp lý, thỏa thuận song phương về công tác quản lý biên giới.

Thứ năm, cần tích cực đẩy mạnh công tác phát triển kinh tế – xã hội khu vực biên giới trong thời gian tới, theo đó, cần làm tốt một số nội dung như:

Thực hiện nghiêm túc các văn kiện pháp lý và thỏa thuận song phương về biên giới trên đất liền đã được ký kết; phát huy hiệu quả các cơ chế phối hợp quản lý biên giới; kịp thời giải quyết các vụ việc phát sinh trên biên giới; ứng phó hiệu quả, sáng tạo, linh hoạt với những vấn đề, thách thức mới nổi tại khu vực biên giới; đẩy mạnh hơn nữa giao lưu hữu nghị và hợp tác cùng có lợi giữa các địa phương biên giới của ta với các địa phương các nước láng giềng tiếp giáp. Từng bước đầu tư xây dựng, hoàn thiện các công trình biên giới phục vụ công tác quản lý bảo vệ biên giới; hiện đại hóa công tác quản lý biên giới trong tình hình mới.

Từng bước hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, cửa khẩu nhằm nâng cao năng lực và nhu cầu giao thương của các địa phương trong cả nước. Quy hoạch, đầu tư các tuyến đường giao thông (cao tốc) liên vùng, kết nối đến các cửa khẩu quan trọng. Trên cơ sở nhu cầu phát triển của nước ta và các nước láng giềng, tiếp tục nghiên cứu, triển khai mở mới và nâng cấp các cặp cửa khẩu biên giới đất liền.

Tiếp tục nghiên cứu, ban hành các cơ chế, chính sách nâng cao đời sống người dân, phát triển kinh tế – xã hội gắn với đảm bảo an ninh, quốc phòng tại khu vực biên giới, trong đó tập trung vào các chính sách thúc đẩy kinh tế cửa khẩu, thương mại biên giới, du lịch…

Tăng cường công tác quảng bá, thu hút các nguồn lực cả trong và ngoài nước đầu tư có chọn lọc vào các lĩnh vực có ưu thế tại khu vực biên giới như gia công chế biến nông – lâm sản, dược liệu, nông nghiệp công nghệ cao, hạ tầng thương mại biên giới, du lịch biên giới…, phù hợp với điều kiện tự nhiên và chiến lược phát triển chung của đất nước; phát huy hiệu quả vai trò của các khu kinh tế cửa khẩu.

Tựu chung lại, có thể thấy rằng biên giới, lãnh thổ luôn gắn liền với lòng tự hào, tâm lý, tình cảm dân tộc, do đó, quá trình giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ thường phải kéo dài, trải qua với nhiều cuộc đàm phán ở các cấp khác nhau. Vì vậy, trong việc giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ, cần tránh tư tưởng nóng vội, muốn đạt kết quả sớm, tuy nhiên cũng không được bỏ qua thời cơ giải quyết vấn đề. Trong đàm phán cần kiên trì thúc đẩy các điểm tương đồng và thu hẹp những điểm khác biệt, kiên quyết đấu tranh, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp, chính đáng, phù hợp luật pháp quốc tế trong quá trình giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ.

Việc đề xuất phương án cũng như tiến hành giải quyết các bất đồng về biên giới lãnh thổ cần có sự đồng lòng, nhất trí và phối hợp chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương, có sự ủng hộ tích cực của nhân dân khu vực biên giới. Nói một cách ngắn gọn là cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị của đất nước.

Trên cơ sở các bài học và kinh nghiệm vừa qua, Việt Nam cần tiếp tục định hướng, hoàn thiện pháp luật về biên giới lãnh thổ nhằm khai thác tốt các tiềm năng và lợi thế tại khu vực biên giới, bảo đảm quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế – xã hội vùng biên giới, cần phải tiếp tục nghiên cứu, rà soát các chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển để điều chỉnh và có những giải pháp phù hợp với thực tế.

Hùng Cường, Lê Hoàng, Kiều Anh // https://vov.vn/

Views: 372

The post Chặng đường định rõ cương vực đất nước và bảo vệ biên giới lãnh thổ Việt Nam. Bài 4: Giá trị và giải pháp phát huy hiệu quả Luật Biên giới quốc gia sau 20 năm ban hành appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Chặng đường định rõ cương vực đất nước và bảo vệ biên giới lãnh thổ Việt Nam. Bài 3: Bảo vệ biên giới lãnh thổ: Đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/bien-gioi-lanh-tho-viet-nam-bai-3.html Tue, 16 Jul 2024 07:50:14 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28352 Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền BÀI 3: BẢO VỆ BIÊN GIỚI

The post Chặng đường định rõ cương vực đất nước và bảo vệ biên giới lãnh thổ Việt Nam. Bài 3: Bảo vệ biên giới lãnh thổ: Đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền

BÀI 3: BẢO VỆ BIÊN GIỚI LÃNH THỔ: ĐẶT LỢI ÍCH CỦA QUỐC GIA, DÂN TỘC LÊN TRÊN HẾT

Bài 1: Chặng đường dài bảo vệ biên giới lãnh thổ Việt Nam

Bài 2: Việt Nam tích cực, chủ động, sáng tạo giải quyết tranh chấp biên giới

Sau khi Luật Biên giới quốc gia năm 2003 có hiệu lực, Chính phủ đã ban hành các nghị định liên quan để triển khai thực hiện, bao gồm Nghị định số 140/2004/NĐ-CP ngày 25/6/2004 Quy định chi tiết một số điều của Luật Biên giới quốc gia,

Nghị định số 32/2005/NĐ-CP ngày 14/3/2005 của Chính phủ về Quy chế cửa khẩu biên giới đất liền, Nghị định số 34/2014/NĐ-CP ngày 29/4/2014 về Quy chế khu vực biên giới đất liền nước CHXHCN Việt Nam, Nghị định số 112/2014/NĐ-CP ngày 21/11/2014 quy định về quản lý cửa khẩu biên giới đất liền.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Bá Sơn – Nguyên Chủ tịch, Hội Luật quốc tế Việt Nam (VSIL), Nguyên Vụ trưởng Vụ Luật và Điều ước quốc tế, Bộ Ngoại Giao: “Hệ thống văn bản nội luật như trên cùng với các điều ước quốc tế song phương và các thỏa thuận liên quan đã đáp ứng cơ bản các yêu cầu trong công tác quản lý, bảo vệ biên giới trong suốt thời gian qua, là cơ sở để các lực lượng liên quan bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới lãnh thổ, duy trì an ninh, trật tự khu vực biên giới, triển khai, thực thi các chính sách hợp tác, phát triển kinh tế – xã hội khu vực biên giới, góp phần nâng cao đời sống nhân dân khu vực biên giới”.

Hiện nay, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật tạo ra nhiều công nghệ mới, một mặt giúp thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nhưng cũng dẫn đến nhiều vấn đề pháp lý khác nhau liên quan đến biên giới lãnh thổ, quản lý biển và tài nguyên biển, bảo vệ môi trường biển.

Việc nảy sinh những yêu cầu, tình huống mới trong công tác quản lý biên giới đòi hỏi chúng ta phải kịp thời thích ứng, bổ sung, điều chỉnh các quy định cho phù hợp. Tình hình thay đổi, nhất là nhu cầu phát triển kinh tế đòi hỏi pháp luật quốc gia và luật quốc tế phải được củng cố để phù hợp trong bối cảnh mới.

Bên cạnh đó, trong thời gian tới, các cơ quan liên quan sẽ cần rà soát, nghiên cứu, đánh giá để có các sự điều chỉnh bổ sung kịp thời, đặc biệt đối với các văn bản dưới luật để thực hiện tốt hơn nữa công cuộc quản lý, gìn giữ, bảo vệ biên giới quốc gia.

Trong giải quyết các vấn đề biên giới – lãnh thổ với các quốc gia láng giềng phải nắm vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác hữu nghị và bình đẳng của Đảng và Nhà nước ta.

“Khi giải quyết những vấn đề liên quan đến bảo vệ chủ quyền quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ, sự ổn định của biên giới biên giới… cần vận dụng một cách có nguyên tắc và sáng tạo đường lối nói trên, trên cơ sở “đặt lợi ích của quốc gia và dân tộc lên trên hết” như đã được khẳng định trong các Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XII và XIII”, Tiến sĩ Nguyễn Bá Sơn chia sẻ quan điểm.

Bên cạnh đó, việc giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ phải căn cứ vào các cơ sở lịch sử, pháp lý và thực tiễn quản lý, bảo vệ biên giới, đồng thời vận dụng các quy định có liên quan của luật pháp và thực tiễn quốc tế nhằm đạt đến giải pháp công bằng, tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế.

Luật pháp quốc tế giữ vai trò then chốt – vừa là căn cứ, cơ sở, công cụ, vừa là thước đo cho kết quả cuối cùng. Đây cũng chính là quan điểm của Nhà nước CHXHCN Việt Nam được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia đã ban hành (Tuyên bố của Chính phủ về các vùng biển năm 1977, Tuyên bố về đường cơ sở năm 1982, Nghị quyết phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, Luật Biển Việt Nam, Luật biên giới quốc gia…), cũng như các văn kiện pháp lý quốc tế song phương và đa phương liên quan đến các vấn đề biên giới – lãnh thổ đã được ký kết và tham gia

Theo Tiến sĩ Constantinos Yiallourides – Đại học Macquarie, Sydney: “Dĩ nhiên, vẫn còn một số vấn đề đang chờ giải quyết, đòi hỏi sự hợp tác không chỉ từ Việt Nam mà còn từ các bên tranh chấp khác. Theo tôi, những vấn đề này cuối cùng sẽ được giải quyết. Điều rất quan trọng là bảo vệ chủ quyền Việt Nam nhằm ngăn chặn các quốc gia có yêu sách hành động thay đổi hiện trạng các vùng lãnh thổ tranh chấp và các vùng lãnh thổ vẫn đang được giải quyết.

Từ góc độ quốc tế, điều quan trọng là phải ngăn chặn những thay đổi đơn phương, thậm chí ngăn chặn bất kỳ nỗ lực nào của các bên tranh chấp nhằm thay đổi hiện trạng có thể dẫn đến việc thay đổi tình trạng lãnh thổ. Đây là hành động sẽ ảnh hưởng thực tế đến việc giải quyết những tranh chấp giữa các bên, khiến cho việc bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền trở nên rất khó khăn khi các tranh chấp đi đến giải pháp.

Thay vì quy định biện pháp bắt buộc, luật quốc tế chỉ yêu cầu các quốc gia tìm cách giải quyết tranh chấp biên giới lãnh thổ thông qua các biện pháp hòa bình. Việc giải quyết tranh chấp biên giới, dù ở trong hay ngoài cơ chế của Liên Hợp Quốc chỉ có thể được tiến hành khi có sự đồng ý của các quốc gia liên quan. Các quốc gia giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình “sao cho không tổn hại đến hoà bình, an ninh quốc tế và công lý”.

Theo ông Yiallourides, các quốc gia liên quan có thể chủ động ngăn chặn những hành vi đơn phương thay đổi nguyên trạng của lãnh thổ thông qua các thỏa thuận tạm thời trong khi chờ giải quyết tranh chấp. Các thỏa thuận này không ảnh hưởng đến yêu sách hay quan điểm pháp lý của mỗi bên, mà chỉ nhằm góp phần duy trì nguyên trạng của lãnh thổ tranh chấp; bảo vệ các yêu sách chủ quyền, cũng như bảo đảm tính toàn vẹn và hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp, dù thông qua biện pháp ngoại giao hay tài phán.

Trách nhiệm ngăn chặn tranh chấp lãnh thổ leo thang không nhất thiết thuộc về cơ quan tài phán quốc tế, mà chính các quốc gia tranh chấp tự điều chỉnh hành vi của mình.

Tiến sĩ Yiallourides cho rằng, Việt Nam cần chủ động và không cho phép có bất kỳ thay đổi nào đối với hiện trạng, đặc biệt là với các thực thể đang tranh chấp ở Biển Đông.

“Thực tế là khi chúng ta nói về việc bảo vệ biên giới quốc gia và bảo vệ để đảm bảo thực hiện bất kỳ luật quốc tế nào thì đều cần tiến hành các biện pháp phòng ngừa để ngăn chặn bất kỳ ai có ý định thay đổi hiện trạng”, chuyên gia Constantinos Yiallourides nói.

Việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam với các nước láng giềng cũng như xác định chính xác bối cảnh tình hình khu vực và quốc tế sẽ góp phần quan trọng cho tiến trình giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ. Đồng thời, chính việc giải quyết thỏa đáng, công bằng, có cơ sở pháp lý các vấn đề biên giới, lãnh thổ cũng sẽ là động lực để thúc đẩy phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước có liên quan.

Theo Tiến sĩ Constantinos Yiallourides: “Việt Nam có thể chủ động đi đến thỏa thuận với các nước láng giềng. Trong những thỏa thuận này cần hướng đến các khía cạnh thực tế, bao gồm bảo vệ môi trường biển, bảo vệ các vùng biển theo các hiệp định về biển, đảo mà Việt Nam đã ký kết liên quan đến quản lý nghề cá hoặc cùng phát triển nguồn năng lượng dưới đáy biển.

Bên cạnh đó, phải luôn đảm bảo các đường dây liên lạc song phương, các đường dây an ninh, đường dây liên lạc nóng nhằm đảm bảo sự ổn định, đồng thời có dự báo những diễn biến bất ngờ liên quan đến đường biên giới. Từ đó, sẽ nắm bắt và điều chỉnh một cách hoà bình những vấn đề còn tranh chấp giữa các nước, không gây ra bất kỳ leo thang căng thẳng nào bởi nếu để xảy ra tình huống leo thang thành “thù địch”, thì điều đó có thể vượt khỏi tầm kiểm soát”.

Hùng Cường, Lê Hoàng, Kiều Anh // https://vov.vn/

Bài 4: Giá trị và giải pháp phát huy hiệu quả Luật Biên giới quốc gia sau 20 năm ban hành

Views: 375

The post Chặng đường định rõ cương vực đất nước và bảo vệ biên giới lãnh thổ Việt Nam. Bài 3: Bảo vệ biên giới lãnh thổ: Đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Chặng đường định rõ cương vực đất nước và bảo vệ biên giới lãnh thổ Việt Nam. Bài 2: Việt Nam tích cực, chủ động, sáng tạo giải quyết tranh chấp biên giới https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/bien-gioi-lanh-tho-viet-nam-bai-2.html Tue, 16 Jul 2024 07:28:20 +0000 https://www.thuvienbinhthuan.com.vn/?p=28339 Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền BÀI 2: VIỆT NAM TÍCH CỰC,

The post Chặng đường định rõ cương vực đất nước và bảo vệ biên giới lãnh thổ Việt Nam. Bài 2: Việt Nam tích cực, chủ động, sáng tạo giải quyết tranh chấp biên giới appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>
Thông tin tuyên truyền: Biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền

BÀI 2: VIỆT NAM TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BIÊN GIỚI

Bài 1: Chặng đường dài bảo vệ biên giới lãnh thổ Việt Nam

Tranh chấp quốc tế, đặc biệt là tranh chấp biên giới – lãnh thổ, luôn là mầm mống gây ra các cuộc xung đột, thậm chí là xung đột vũ trang giữa các quốc gia. Vì vậy, việc tích cực và chủ động giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình luôn được Việt Nam và các quốc gia láng giềng coi là nhiệm vụ hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mình. Lãnh thổ là một trong những yếu tố cấu thành nên quốc gia, vì vậy mà đây cũng chính là lợi ích cốt lõi của dân tộc. Giải quyết các tranh chấp lãnh thổ phải dựa trên cơ sở lịch sử, pháp lý và cân nhắc một cách hợp lý đến lợi ích chính đáng của cư dân.

Ngay sau khi đất nước thống nhất, Việt Nam đã xác định hai nhiệm vụ chiến lược của cả nước là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Nghị quyết 28-NQ/TW của Trung ương khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tập trung giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ tạo điều kiện cho đổi mới, hội nhập quốc tế. Để giải quyết các nhiệm vụ trên, sự vận dụng và áp dụng sáng tạo luật quốc tế vào điều kiện Việt Nam là một trong những yếu tố góp phần thành công.

Giải quyết hòa bình các tranh chấp lãnh thổ, tranh chấp biển là một nguyên tắc của Luật quốc tế và cũng là cơ sở để hợp tác, phát triển, xây dựng kinh tế bền vững. Thành quả lớn nhất của Luật Biên giới Quốc gia 2003 và Luật biển 2012 trong những năm qua là đã định hình và khuyến khích việc giải quyết gần như hoàn toàn biên giới đất liền với hơn 4.500 km.

Việt Nam đã đàm phán hoạch định và hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới đất liền với Trung Quốc (1991-2009), với Lào (1977-2007) và 84 % biên giới đất liền với Campuchia, góp phần định hình rõ cương vực đất nước sau 4000 năm lịch sử. 

Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ, Đại sứ Nguyễn Hồng Thao: “Đây cũng có thể được coi là một võ công trong lịch sử dân tộc của thời đại Hồ Chí Minh, vì chưa bao giờ nước ta có một đường biên giới quốc tế trên đất liền hoàn chỉnh, được đánh dấu bằng các cột mốc hiện đại, được ghi nhận trong các điều ước quốc tế, được đăng ký tại Liên Hợp Quốc, làm cơ sở cho đấu tranh bảo vệ an ninh chủ quyền lãnh thổ và hợp tác với các nước như hiện nay”.

Việt Nam tham gia Hội nghị lần thứ ba của Liên Hợp Quốc về luật biển 1977-1982 và là một trong những nước ký Văn bản Công ước luật biển năm 1982 ngay vào ngày mở ký, tạo điều kiện mở rộng các vùng biển Việt Nam theo luật pháp quốc tế và đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Với tuyên bố Chính phủ về các vùng biển Việt Nam ngày 12/5/1977 và tham gia Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), Việt Nam lần đầu tiên khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và các quyền tài phán quốc gia trên vùng biển rộng hơn nhiều lần đất liền và tham gia quản lý Đại dương quốc tế. Đây được coi là võ công “tiến ra biển” lớn nhất trong lịch sử dân tộc.

Đại sứ Nguyễn Hồng Thao nhận định: “Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam luôn tuân thủ luật quốc tế, giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế và hợp tác quốc tế. Việt Nam không chỉ áp dụng luật quốc tế mà còn áp dụng một cách sáng tạo”.

Việt Nam đã ký 4 thỏa thuận quốc tế về phân định biển. Thỏa thuận phân định biển với Thái Lan trong Vịnh Thái Lan năm 1997 là thỏa thuận phân định biển đầu tiên trong khu vực sau khi UNCLOS có hiệu lực. Trong thoả thuận này, hai bên đã áp dụng phương pháp hai giai đoạn: 1 – vạch đường trung tuyến ban đầu; 2 – tính tới hiệu lực các đảo và điều chỉnh đường phân định ban đầu để đạt được kết quả cuối cùng. Hai bên cũng đồng ý áp dụng một đường phân định cho cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Thỏa thuận đã góp phần ổn định tình hình trên Vịnh Thái Lan vốn được nhiều người chú ý về cướp biển, tranh chấp đánh bắt cá.

Tới năm 2000, Việt Nam và Trung Quốc đã áp dụng sáng tạo nguyên tắc công bằng trong phân định. Việt Nam đã đấu tranh để triển khai phương pháp ba giai đoạn: 1 – hai bên vẽ đường phân định chủ trương; 2 – hai bên thảo luận về các hoàn cảnh đặc biệt để điều chỉnh; 3 – kiểm tra kết quả công bằng dựa trên tỷ lệ chiều dài bờ biển và tỷ lệ diện tích đạt được (Tỷ lệ diện tích Việt Nam/Trung Quốc là 53,27/46,73 và tỷ lệ chiều dài bờ biển 730/695 km cho thấy là tương đương).

Đáng chú ý phương pháp phân định ba giai đoạn để đạt được một giải pháp công bằng đã được áp dụng thành công tại Vịnh Bắc Bộ 9 năm trước khi Tòa án Công lý quốc tế (ICJ) chính thức khuyến cáo các quốc gia sử dụng trong vụ phân định biển giữa Romania và Ukraine năm 2009.

Nguyên tắc công bằng trong UNCLOS cũng được áp dụng sáng tạo trong cả đường phân định đơn nhất hay tách biệt cho vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. UNCLOS không đòi hỏi áp dụng phân định đơn nhất cho cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa như một quy tắc bắt buộc. Các phán quyết của trọng tài quốc tế và tòa án công lý quốc tế như vụ Vịnh Maine, Vụ đảo Jan Mayen… cũng có các kết luận đa dạng về áp dụng đường ranh giới đơn nhất hay tách biệt, phụ thuộc vào các điều kiện cụ thể và thỏa thuận các quốc gia.

Trên cơ sở đó, Việt Nam đã hoàn tất đàm phán phân định thềm lục địa với Indonesia năm 2003 và đặc quyền kinh tế với Indonesia năm 2022. Việc hoàn thành phân định biển với Indonesia sau 49 năm đàm phán đã góp phần củng cố tình đoàn kết giữa hai nước trong ASEAN và hợp tác đấu tranh chống nạn đánh bắt cá bất hợp pháp, không theo quy định và không báo cáo (IUU).

Việt Nam cũng là nước áp dụng nhiều hình thức dàn xếp tạm thời trong khi chờ đợi kết quả phân định cuối cùng, quy định trong điều 74 và 84 như Vùng nước lịch sử chung Việt Nam – Campuchia năm 1982 hay khu vực xác định khai thác chung Việt Nam – Malaysia năm 1995. Việt Nam là đồng tác giả với Philippines trong soạn thảo Dự thảo COC của ASEAN và đã tích cực đấu tranh thông qua Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) hồi năm 2002 và hiện đang phấn đấu cùng các bên liên quan đạt được Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) với yêu cầu cần có cơ chế cưỡng chế và ràng buộc pháp lý để nâng cao tính hiệu quả.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia Nguyễn Thị Hường khẳng định, Việt Nam đã thực hiện hiệu quả pháp luật quốc tế trong việc giải quyết biên giới lãnh thổ. Việt Nam thực hiện đầy đủ và thiện chí các điều ước quốc tế đã ký kết và tuân thủ luật pháp quốc tế trong vấn đề biên giới lãnh thổ, góp phần tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định, phục vụ hợp tác và phát triển.

Bên cạnh đó, Việt Nam luôn ủng hộ các mục tiêu và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, đặc biệt là nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, không đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Chủ trương này đã được lãnh đạo cấp cao, lãnh đạo các bộ, ngành Việt Nam khẳng định tại các diễn đàn trong nước và quốc tế, song phương và đa phương.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Bá Sơn – Nguyên Chủ tịch, Hội Luật quốc tế Việt Nam (VSIL), Nguyên Vụ trưởng Vụ Luật và Điều ước quốc tế, Bộ Ngoại Giao: “Trong giải quyết các tranh chấp biên giới, mục tiêu hàng đầu là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Chỉ có những giải pháp bình đẳng, hợp tình hợp lý cho các tranh chấp, qua đó xác định một đường biên giới ổn định, thì mới tạo ra cơ sở vững chắc một nền hòa bình lâu dài, cho sự hợp tác có hiệu quả giữa các quốc gia láng giềng”.

Chính vì vậy trong đàm phán biên giới – lãnh thổ không được nóng vội, không đặt ra vấn đề về tốc độ. Thực tiễn quốc tế cho thấy nhiều tranh chấp lãnh thổ, ví dụ như tranh chấp giữa Nga và Nhật Bản liên quan đến quần đảo trên Thái Bình Dương mà Nga gọi là Kuril và Nhật coi là Lãnh thổ Phương Bắc kéo dài từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai (1945) đến nay mà vẫn chưa thể giải quyết được. Đồng thời, trong đàm phán cũng phải biết nắm bắt thời cơ thuận lợi chín muồi để thúc đẩy việc việc tìm kiếm một giải pháp hợp tình hợp lý và công bằng cho các tranh chấp biên giới lãnh thổ.

Tiến sĩ Nguyễn Bá Sơn cũng cho rằng: “Lãnh thổ liên quan đến lợi ích cốt lõi của tất cả các quốc gia, vì vậy nên đàm phán về biên giới hết sức khó khăn, cần phải có bản lĩnh và kiên trì”.

Sự khéo léo trong đàm phán là làm sao để vừa bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ nhưng đồng thời không để cho các tranh chấp về biên giới, các xung đột về lãnh thổ phát triển căng thẳng hơn, thậm chí có thể trở thành xung đột vũ trang. Phải tìm ra các giải pháp quá độ hoặc tạm thời làm giảm căng thẳng nhằm từng bước tiến tới một giải pháp căn cơ.

Về vấn đề này, Giáo sư Pierre Klein – Trung tâm Luật quốc tế, Đại học Tự do Bruxelles cho rằng: “Việt Nam đang giải quyết các vấn đề về biên giới lãnh thổ một cách rất nghiêm túc. Theo đó, Việt Nam đã chủ động phân định biên giới của mình với các nước láng giềng. Các bạn đã rất tích cực và đạt hiệu quả trong lĩnh vực này. Chắc chắn rằng, việc xác định ranh giới rõ ràng và duy trì sự ổn định của đường ranh giới là yếu tố quan trọng để xây dựng mối quan hệ láng giềng tốt đẹp giữa các nước. Bởi vì, ranh giới chính xác và ổn định sẽ góp phần đảm bảo an toàn, an ninh. Do vậy, tất cả các hành động, chính sách góp phần bảo vệ, đảm bảo an ninh biên giới đều được hoan nghênh, ủng hộ. Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa các nước láng giềng”.

Giáo sư Pierre Klein (giữa) – Trung tâm Luật quốc tế, Đại học Tự do Bruxelles (Bỉ)

Đánh giá về nỗ lực của Việt Nam trong giải quyết các tranh chấp quốc tế, Tiến sĩ Constantinos Yiallourides – Đại học Macquarie, Sydney nói: “Việt Nam luôn hoạt động trong khuôn khổ của luật pháp quốc tế. Việt Nam đã đi một chặng đường dài để đạt được các thỏa thuận với các quốc gia láng giềng theo các quy tắc và nguyên tắc của luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS, cũng như các quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Do đó, Việt Nam là một ví dụ điển hình về một quốc gia đã thực hiện mọi nỗ lực trong khả năng của mình để duy trì quan hệ hòa bình với các nước láng giềng và đến nay, Việt Nam đã đạt được nhiều thành công”.

Thành công đó không phải ngẫu nhiên mà có, Đảng ta đã xác định rõ, quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới quốc gia là sự nghiệp của toàn dân, nhiệm vụ chung của tất cả các ngành, các cấp trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chính phủ cũng đã ban hành nhiều văn bản quy định rõ trách nhiệm, công tác phối hợp của các lực lượng trong công tác quản lý, bảo vệ biên giới. Thời gian qua, công tác phối hợp giữa các bộ, ban, ngành và địa phương trong quản lý biên giới được triển khai một cách đồng bộ, bài bản, khoa học trên tất cả lĩnh vực liên quan.

Hùng Cường, Lê Hoàng, Kiều Anh // https://vov.vn/

Bài 3: Bảo vệ biên giới lãnh thổ: Đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết

Views: 747

The post Chặng đường định rõ cương vực đất nước và bảo vệ biên giới lãnh thổ Việt Nam. Bài 2: Việt Nam tích cực, chủ động, sáng tạo giải quyết tranh chấp biên giới appeared first on Thư Viện Tỉnh Bình Thuận.

]]>