Kỷ niệm 78 năm Ngày Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 – 19/8/2023) và Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2023)

KỶ NIỆM 78 NĂM NGÀY CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THÀNH CÔNG (19/8/1945 – 19/8/2023) VÀ NGÀY QUỐC KHÁNH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM (2/9/1945 – 2/9/2023)

Ngày 19/8/1945 đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi – Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập, mở ra một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Nguồn: https://btgtu.binhthuan.dcs.vn/

———————————————————————————————————-

NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 minh chứng cho bản lĩnh và trí tuệ của Ðảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn.

Tháng Tám năm 1945, chớp thời cơ “ngàn năm có một,” dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta không phân biệt giàu nghèo, giai tầng, không phân biệt tôn giáo, xu hướng chính trị vùng lên tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa “long trời, lở đất”, giành chính quyền trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo.

Thắng lợi ấy cũng minh chứng cho bản lĩnh và trí tuệ của Ðảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn./.

TTX // https://www.tuyengiao.vn/

———————————————————————————————————-

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN THÀNH QUẢ VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

Bất chấp mọi luận điệu, thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận của các thế lực thù địch, phản động, thì thành quả của Cách mạng Tháng Tám vẫn được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bảo vệ vững chắc; những giá trị bất diệt, những bài học kinh nghiệm quý báu vẫn được phát huy mạnh mẽ, sáng tạo trong tiến trình đổi mới, phát triển đất nước.

Cách mạng Tháng Tám thành công có nguyên nhân quan trọng, tiên quyết từ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tổng khởi nghĩa Tháng Tám diễn ra và giành thắng lợi nhanh chóng trong vòng 15 ngày (từ 14/8 đến 28/8/1945), trong đó thắng lợi ở Hà Nội (19/8), Huế (23/8), Sài Gòn (25/8) có ý nghĩa quyết định. Ngày 2/9/1945, tại cuộc mít tinh lớn ở vườn hoa Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi to lớn đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, thời đại mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội(1) và thời đại Hồ Chí Minh – thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Với tầm vóc, ý nghĩa như vậy, mỗi dịp lễ kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2/9 là dịp để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tưởng nhớ, tri ân lớp lớp những người đã hiến dâng tuổi trẻ, sức lực, trí tuệ, tính mạng của mình để làm nên nền độc lập của dân tộc và giang sơn gấm vóc này. Đồng thời, là dịp để chúng ta nhắc nhớ, nhìn nhận sâu sắc, vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm lịch sử trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay. Thế nhưng, “đến hẹn lại lên”, vào dịp lễ kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2/9 thiêng liêng của dân tộc ta thì các thế lực phản động, thù địch với tâm địa đen tối, bằng những thủ đoạn thâm độc, nham hiểm vẫn ra sức xuyên tạc, phủ định thành quả và tầm vóc, ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám. 

NHỮNG LUẬN ĐIỆU NHAM HIỂM, CŨ RÍCH

Các thế lực thù địch, phản động và thành phần bất mãn chính trị vẫn “nhai đi nhai lại” những luận điệu cũ rích, rằng: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là “sự ăn may”. Rằng, Việt Minh đã nhanh tay cướp lấy thành quả của Đồng minh chống phát xít, khi quân đồng minh chưa kịp vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật. Luận điệu khác thì cho rằng, Cách mạng Tháng Tám là do tinh thần dân tộc lãnh đạo, dù không có Đảng Cộng sản, nhiều nước thuộc địa đã giành được độc lập mà ít tốn xương máu. Sự hao tốn xương máu của dân tộc là do Đảng Cộng sản gây ra. Hay có kẻ còn trắng trợn “kết tội” rằng: thành quả Cách mạng Tháng Tám nhanh chóng rơi vào tay Đảng Cộng sản và đây là nguyên nhân khiến dân tộc Việt Nam rơi vào “thảm họa” chiến tranh, đất nước bị tàn phá, dân tộc phân ly và ngày nay tiếp tục tình trạng nghèo đói, lạc hậu; nếu không đi theo con đường cách mạng vô sản, Việt Nam vẫn có độc lập mà tránh được chiến tranh, đi theo con đường của nước tư bản phát triển tới phồn vinh(!)…

Những luận điệu nham hiểm, cũ mòn nêu trên không chỉ là của các thế lực tư bản đế quốc lái súng, thù địch mà còn của các phần tử phản động, cơ hội chính trị, suy thoái ở trong nước mặc dù đã thụ hưởng thành quả của Cách mạng Tháng Tám trong mấy chục năm qua nhưng lại phản bội, “đổi trắng thay đen”…

Mục đích của họ là phủ nhận thành quả, tầm vóc, ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, gây tâm lý mơ hồ, hoài nghi, chia rẽ trong xã hội, nhất là trong giới trẻ để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ngăn trở hòa hợp dân tộc, đẩy một bộ phận nhân dân xa rời Đảng, Nhà nước, hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận thành quả cách mạng, hướng lái dân tộc Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa…

Do vậy, tuy những luận điệu cũ rích ấy không thể đánh lừa những người nghiêm túc, tỉnh táo, am hiểu lịch sử, tôn trọng sự thật khách quan nhưng cũng cần nâng cao cảnh giác, bởi trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và mạng xã hội phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp – dân tộc về tư tưởng – văn hóa vẫn diễn ra rất phức tạp, quyết liệt trên phạm vi quốc tế và các thế lực thù địch, phản động vẫn không từ bỏ chiến lược “Diễn biến hòa bình” để chống phá độc lập dân tộc và CNXH trên thế giới và ở Việt Nam.

THÀNH QUẢ VĨ ĐẠI TỪ ĐẤU TRANH CỦA TOÀN DÂN TỘC DO ĐẢNG LÃNH ĐẠO

Lịch sử đã khẳng định, để làm nên thành công của Cách mạng Tháng Tám “long trời, lở đất”, cả dân tộc Việt Nam với quyết tâm và tinh thần “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho kỳ được độc lập dân tộc”, đã nhất tề vùng lên, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã thành công, lật đổ ách thống trị phát xít cùng triều đình phong kiến, thiết lập nên chính quyền cách mạng trên cả nước. Cách mạng Tháng Tám diễn ra trong điều kiện thời cơ “nghìn năm có một”, tuy nhiên, thời cơ đó chỉ được tận dụng và đạt thành quả với sự chuẩn bị chủ động, lâu dài, kỹ lưỡng cả thế và lực lượng cách mạng của Đảng.

Thành quả cách mạng vĩ đại này không chỉ là kết quả của 15 ngày tổng khởi nghĩa, không chỉ là kết quả của sự nghiệp cách mạng trong 15 năm (1930-1945) qua cao trào 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 (trong đó, gần như ngay từ đầu, dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chủ động cùng với lực lượng đồng minh chống phát xít), mà còn là kết quả của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trong gần một thế kỷ của nhân dân ta. Do đó, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc lâu dài, đầy hy sinh, gian khổ của nhân dân ta dưới sự tổ chức lãnh đạo bài bản, khoa học, sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chứ không phải là sự “ăn may” hay “cướp công” như các thế lực thù địch, phản động đã cố tình xuyên tạc, bóp méo.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công do nhiều nguyên nhân, đó là sự vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, sáng tạo trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi nhất định (chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh…); là sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; là tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, kể cả sự huy động kết tinh truyền thống anh hùng, trí tuệ, bất khuất của dân tộc Việt Nam qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước…, trong đó nguyên nhân quan trọng, tiên quyết là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh theo mục tiêu, ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền CNXH.

Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ GIÁ TRỊ MUÔN ĐỜI

Sử gia người Na Uy S.Tonesson đánh giá: “Cuộc cách mạng ở Việt Nam năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, không chỉ có vậy, đó còn là một cuộc cách mạng chính trị chống lại nền quân chủ thối nát, và là một cuộc cách mạng xã hội chống lại chủ đất và những người thu thuế”(2). Cách mạng Tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới, đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ lên làm chủ cuộc đời mới, kỷ nguyên nhân dân được tự do, đất nước được độc lập. Sức lan tỏa của Cách mạng Tháng Tám đã thức tỉnh các dân tộc trên thế giới, các nước Phi, Mỹ La tinh, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc để giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột. Đúng như nhà sử học Mông Cổ, TS Sanomish Dashtsevel đánh giá: “Cách mạng Tháng Tám đã tạo điều kiện cho nhân dân Việt Nam làm chủ đất nước, giành được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước. Cuộc Cách mạng tháng Tám còn có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc, dân chủ ở các nước châu Á và trên thế giới”(3).

Chủ tịch Hồ Chí Minh – Tổng công trình sư và là linh hồn của Cách mạng Tháng Tám đã khái quát và nhấn mạnh rằng: “Lịch sử dân tộc ta có nhiều thời kỳ rất vẻ vang. Nhưng trước ngày Cách mạng Tháng Tám, dân tộc ta đã phải trải qua gần một thế kỷ vô cùng tủi nhục. Trên địa đồ thế giới, tên nước ta đã bị xóa nhòa dưới bốn chữ “Đông Dương thuộc Pháp”. Thực dân Pháp gọi đồng bào ta là lũ Annamít dơ bẩn. Thiên hạ gọi chúng ta là vong quốc nô… Cách mạng Tháng Tám thành công. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Nhân dân ta tự làm chủ vận mạng của mình. Tên tuổi của nước ta lại lừng lẫy khắp năm châu, bốn biển”(4). Do đó, Cách mạng Tháng Tám không chỉ có ý nghĩa dân tộc mà còn có ý nghĩa quốc tế sâu sắc: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng, lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”(5).

Với tiền đề, nền tảng của Cách mạng Tháng Tám cũng như những bài học kinh nghiệm quý báu từ cuộc cách mạng vĩ đại này, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tộc đoàn kết một lòng, phát huy sức mạnh tổng hợp, vượt qua mọi khó khăn gian khổ và tiếp tục giành được những thắng lợi vĩ đại. Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, mà đỉnh cao là thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ngày 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thu giang sơn về một mối, đưa cả nước thống nhất quá độ lên CNXH. Đó là thắng lợi trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả.

Trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng XHCN, dưới sự lãnh đạo đạo của Đảng, tiếp tục phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám 1945, đất nước ta đã đạt được những thành quả to lớn có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Theo đó, từ một quốc gia kém phát triển, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng. Bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi tích cực, tiến bộ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; tiềm lực của đất nước, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam không ngừng nâng cao…

Những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được cho thấy và khẳng định rằng, bất chấp mọi sự xuyên tạc, phủ nhận bằng nhiều thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động cả ở trong và ngoài nước, thì thành quả của Cách mạng Tháng Tám vẫn được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bảo vệ vững chắc và những giá trị bất diệt, những bài học kinh nghiệm quý báu của cuộc cách mạng này vẫn đồng hành, soi sáng và được vận dụng, phát huy mạnh mẽ, sáng tạo trong tiến trình đổi mới, phát triển đất nước.

“Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” là minh chứng sống động, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả và tầm vóc, ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám vĩ đại./.

Nguyễn Anh Tuấn – Phạm Tố Uyên // https://www.tuyengiao.vn/

_________________

(1) Đinh Xuân Lâm (Chủ biên): Đại cương lịch sử Việt Nam (Tái bản lần thứ 13), Nxb. Giáo dục Việt Nam, H, 2011, t.2, tr.370.

(2) Cách mạng tháng Tám trong mắt các học giả quốc tế, https://www.anninhthudo.vn/cach-mang-thang-tam-trong-mat-cac-hoc-gia-quoc-te-post442820.antd.

(3) Nguyễn Văn Toàn: Phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, https://www.bienphong.com.vn/phat-huy-tinh-than-cach-mang-thang-tam-trong-cong-cuoc-xay-dung-va-phat-trien-dat-nuoc-post453528.html.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H, 2011, t.14, tr.621.

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.25.

———————————————————————————————————-

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945: BÀI HỌC VỀ NHẬN ĐỊNH, VẬN DỤNG THỜI CƠ VÀ BẢO VỆ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG

Cách mạng tháng Tám năm 1945 là mốc son chói lọi, vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước bước sang kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đồng thời để lại nhiều bài học quý báu về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Quần chúng cách mạng và tự vệ chiến đấu Hà Nội chiếm Phủ Khâm sai (Bắc Bộ phủ), ngày 19-8-1945. (Ảnh: TƯ LIỆU TTXVN)

NHỮNG BÀI HỌC QUÝ BÁU

Một là, tích cực, chủ động nghiên cứu nắm chắc diễn biến tình hình, xác định đúng đắn thời cơ cách mạng để tiến hành tổng khởi nghĩa. Đầu năm 1945, tình thế cách mạng thế giới có sự chuyển biến mau lẹ, chiến tranh thế giới lần thứ Hai đến giai đoạn kết thúc với thắng lợi trên chiến trường thuộc về Hồng quân Liên Xô và quân đồng minh. Nửa cuối tháng 4/1945, Liên xô tiến hành tổng công kích vào Béc-lin, buộc phát xít Đức phải ký văn bản đầu hàng vô điều kiện (09/5/1945). Trên đà thắng lợi, ngày 08/8/1945, Liên Xô tuyên chiến và đánh bại đội quân Quan Đông hùng mạnh nhất của phát xít Nhật, khiến thành viên cuối cùng trong trục phát xít phải chịu khuất phục, đầu hàng vô điều kiện (14/8/1945).

Trong nước, dưới ách thống trị hà khắc, tàn bạo của thực dân, phong kiến, nhất là kể từ khi phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương thực thi những chính sách vô nhân đạo phục vụ chiến tranh, gây ra nạn đói khắp cả nước, đẩy quần chúng nhân dân lao động vào cùng cực, không thể chịu đựng được, phải vùng lên đấu tranh để tự cứu mình. Sau các sự kiện Nhật đảo chính Pháp và Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện; quân Nhật, chế độ phong kiến và chính quyền bù nhìn, phản động rơi vào hoang mang, khủng hoảng tột độ, không đủ khả năng đàn áp phong trào cách mạng. Trong khi đó, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh không ngừng lớn mạnh, phát triển rộng khắp trong cả nước, quy tụ, đoàn kết đông đảo tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đảng phái… đứng lên đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Đánh giá về tình hình lúc bấy giờ, đồng chí Trường Chinh nhấn mạnh: “Cả Đông Dương lúc ấy đang như một cánh đồng cỏ khô. Từng tập, từng tập bản chỉ thị của Ban Thường vụ nhanh chóng theo chân các đồng chí giao thông bay đến các miền đất nước như những cánh chim lửa. Và lửa cách mạng đã bùng lên! Không có ai dập được, không có lực lượng phản động nào, không có sức mạnh tàn bạo nào ngăn cản được ngọn lửa cách mạng đang bùng cháy trong cả nước”(1). Đến tháng 8/1945, nhận thấy những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân đồng minh vào Đông Dương (từ 14/8 đến 05/9/1945), với quyết tâm dù có phải hi sinh tới đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành độc lập cho dân tộc.

Hai là, kịp thời xác định chủ trương, quyết sách lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức tiến hành tổng khởi nghĩa giành thắng lợi trong thời gian rất ngắn. Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bộ Việt Minh đã nắm chắc diễn biến tình hình và thời cơ cách mạng, kịp thời ban hành chủ trương, quyết sách để lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân tiến hành Tổng khởi nghĩa, như: Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta; triệu tập Hội nghị quân sự Bắc kỳ; Chỉ thị tổ chức Ủy ban dân tộc giải phóng các cấp; chuyển căn cứ chỉ đạo cách mạng từ Pác Bó về Tân Trào; xác định các nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa, v.v.. Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động của tổ chức Việt Minh các cấp; chuyển mọi hình thức tuyên truyền cổ động, tổ chức và đấu tranh sang thời kỳ tiền khởi nghĩa, tiến dần từng bước lên tổng khởi nghĩa; tiến hành những hình thức biểu tình tuần hành, bãi công chính trị, bất hợp tác với Nhật; xây dựng các đội Tự vệ cứu quốc, phát động đánh du kích, thống nhất các chiến khu và thành lập Việt Nam Giải phóng quân; tổ chức các ủy ban khởi nghĩa, v.v.. Trước khi quân Nhật tuyên bố đầu hàng một ngày (13/8/1945), Trung ương Đảng và Tổng Bộ Việt Minh tổ chức thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh phụ trách; và ngay trong ngày hôm đó, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã ra Quân lệnh số 1, ban Lệnh Tổng khởi nghĩa. Tại Đại hội quốc dân (16/8/1945) đã thông qua Lệnh Tổng khởi nghĩa và quy định quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, quốc ca là bài tiến quân ca; thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Bác Hồ làm Chủ tịch. Trong thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(2).

Những chủ trương, quyết sách trên là sợi chỉ đỏ thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân và quốc dân, đồng bào tranh thủ thời gian, chớp lấy thời cơ, nhất tề đứng lên, tiến hành Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi trên phạm vi cả nước chỉ trong 2 tuần (từ ngày 14 – 28/8/1945). Các sự kiện thành lập, thông qua danh sách thành viên Chính phủ lâm thời (28, 29/8/1945) và vua Bảo Đại thoái vị (30/8/1945) đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ thực dân, phong kiến; ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.

Ba là, kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, linh hoạt đấu tranh đẩy lùi nguy cơ, thách thức bảo vệ thành quả cách mạng. Tuy đất nước giành được độc lập, nhưng chúng ta phải đối mặt với muôn vàn nguy cơ, thách thức, khó khăn. Quân tưởng mang theo “Việt Quốc”, “Việt Cách” kéo vào với những yêu cầu phi lý và mục tiêu “diệt cộng, cầm Hồ”; thực dân Pháp núp bóng quân Anh với dã tâm cướp nước ta một lần nữa; quốc khố trống rỗng, nạn đói, nạn mù chữ…. đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của chính quyền cách mạng non trẻ, đặt vận nước vào thế “ngàn cân treo sợi tóc”.

Trước tình thế đó, Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều quyết sách thể hiện tư duy nhạy bén, sáng tạo và tầm nhìn chiến lược, như: Cải tổ Ủy ban giải phóng dân tộc thành Chính phủ lâm thời; công khai danh sách các thành viên Chính phủ lâm thời trước khi Vua Bảo Đại thoái vị; ra mắt Chính phủ lâm thời, công bố Tuyên ngôn độc lập trước khi quân đồng minh kéo vào; mở rộng, cải tổ Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên hiệp lâm thời; Đảng ta rút vào hoạt động bí mật; xác định kẻ thù chính của cách mạng là thực dân pháp, v.v.. Đây là cơ sở để chúng ta triển khai thực hiện các chính sách, biện pháp cấp bách để củng cố, bảo vệ thành quả cách mạng.

Về đối nội, chúng ta đã có sự điều chỉnh, mở rộng thành phần Chính phủ liên hiệp, chấp thuận một số đại biểu của “Việt quốc”, “Việt cách” tham gia Chính phủ để hạn chế sự chống phá của chúng và sự can thiệp của quân Tưởng vào công việc nội bộ; đồng thời, kiên quyết trừng trị bọn phản quốc dựa vào thế lực bên ngoài để chống phá cách mạng, nhằm ổn định tình hình. Đặt nhiệm vụ diệt “giặc đói”, “giặc dốt” ngang bằng với nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm, coi đây là những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, trước mắt. Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, kêu gọi người tài đức tham gia Chính phủ và chính quyền các cấp; phát động nhiều phong trào hành động cách mạng, như: Đẩy mạnh tăng gia, sản xuất, tiết kiệm; hũ gạo cứu đói; tuần lễ vàng; bình dân học vụ, v.v..

Về đối ngoại, tuy xác định thực dân Pháp là kẻ thù trực tiếp của cách mạng Việt Nam, nhưng chúng ta tạm thời thực hiện chính sách hòa hoãn, cho quân Pháp ra miền Bắc nhằm tránh cùng một lúc phải đấu tranh với nhiều kẻ thù, bảo toàn lực lượng, củng cố chính quyền cách mạng và sớm gạt quân Tưởng, loại bỏ tay sai của chúng ra khỏi đất nước. Thực hiện chính sách Hoa – Việt thân thiện và những nhượng bộ nhất định với quân Tưởng, nhưng tỉnh táo không mắc mưu khiêu khích và âm mưu đảo chính của chúng.

GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SÂU SẮC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY

Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và giữ vững thành cách mạng tháng Tám năm 1945 được Đảng ta vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong suốt quát trình đấu tranh cách mạng, nhất là ở những giai đoạn, thời điểm lịch sử có tính chất bước ngoặt; trở thành nhân tố quan trọng, quyết định thắng lợi hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thực hiện nhiệm vụ quốc tế, tiến hành chiến tranh bảo vệ biên giới của Tổ quốc, đưa cả nước vững bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vận dụng bài học đó trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta cần quán triệt và thực hiện tốt một số nội dung sau:

Thứ nhất, nâng cao năng lực nghiên cứu, dự báo tình hình tác động đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tỉnh táo, linh hoạt, sáng tạo để nhận định, đánh giá tình hình thế giới, khu vực, trong nước; kết hợp dự báo chiến lược với dự báo ngắn hạn về xu hướng vận động của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…. nhằm nắm vững chủ động chiến lược. Phân tích khách quan, khoa học xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển của thế giới và cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế đất nước gắn với nắm vững xu hướng điều chỉnh quan hệ chiến lược của các nước lớn; diễn biến tình hình các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, xung đột vũ trang, bất ổn, các yếu tố đe dọa an ninh truyền thống, phi truyền thống, nhất là an ninh, an toàn không gian mạng, khủng bố, tội phạm, thiên tai, dịch bệnh, v.v.. Linh hoạt nhận định và dự báo đúng xu hướng vận động của đối tác, đối tượng và sự chuyển hóa giữa chúng trong từng đối tác, đối tượng cụ thể, theo phương châm thêm bạn, bớt thù, tạo thời cơ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Đồng thời, chủ động nghiên cứu, dự báo âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các nguy cơ đe dọa đến mục tiêu, nội dung nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Trên cơ sở đó, nhận định, đánh giá những thời cơ, vận hội và trở ngại, thách thức, khó khăn trực tiếp tác động đến thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; không để Tổ quốc bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Mít tinh Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội (19/8/1945). Ảnh tư liệu

Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Không ngừng củng cố, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện nghiêm chủ trương, quan điểm bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Kết hợp chặt chẽ Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng… với Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và các chiến lược khác đã được Trung ương Đảng và Bộ Chính trị ban hành. Tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách kết hợp giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh và tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Gắn kết vận dụng kết quả tổng kết Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với triển khai thực hiện quan điểm về bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; “giữ nước từ khi nước chưa nguy”, xây dựng “thế trận lòng dân”… trong hoạch định, chủ trương, đường lối và ban hành chính sách, pháp luật về bảo vệ Tổ quốc.

Triển khai quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Cuốn sách là tài liệu quý, thể hiện sự am hiểu sâu sắc, tư duy ở tầm chiến lược của người đứng đầu Đảng ta về đường lối quân sự, quốc phòng Việt Nam; trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh hoa nghệ thuật quân sự Việt Nam và bằng nhãn quan chính trị sắc bén, những kinh nghiệm phong phú trong thực tiễn cách mạng. Những quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư là định hướng quan trọng để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, đồng thời thể hiện sự lãnh đạo sâu sát, toàn diện đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, xứng đáng là thanh bảo kiếm sắc bén, là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Thứ ba, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại trong củng cố, bảo vệ thành tựu sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, của cả hệ thống chính trị; kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế và khơi dậy khát vọng phát triển đất nước,… tạo tiềm lực, sức mạnh tổng hợp cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Gắn tăng cường, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân nhân, thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” với xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp. Xây dựng khu vực phòng thủ và phòng thủ dân sự, bảo đảm mỗi xã là một căn cứ chiến đấu, mỗi huyện, tỉnh là một khu vực phòng thủ vững chắc và “có cơ chế huy động nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh tại các khu vực phòng thủ….; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước”(3). Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng hoạt động đối ngoại nói chung và đối ngoại quốc phòng nói riêng gắn với xử lý khéo léo mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng theo đúng tinh thần chỉ đạo: “Không ngừng đổi mới, sáng tạo trên cơ sở vận dụng nhuần nhuyễn bài học “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên định về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt về phương pháp, sách lược”(4) của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhằm phát huy vị trí địa chiến lược và uy tín, vị thế quốc tế của đất nước trong bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc “từ sớm, từ xa”.

Đồng thời, không ngừng củng cố, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; khơi dậy khát vọng cống hiến, đổi mới, sáng tạo; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc… để mỗi người dân thực là chủ thể tích cực, chủ động trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.

Thái Doãn Tước – Trung tá, ThS Thái Doãn Hùng // https://www.tuyengiao.vn/

———————————————–

(1) Dẫn theo Đài Truyền hình Việt Nam (2020), Phim tài liệu Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh – Biên niên sử Truyền hình năm 1945.

(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, H.2011, tập 3, tr. 596.

(3) ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tập I, tr 159, 201.

(4) Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2022, tr 191-192.

———————————————————————————————————-

GÓP SỨC CHO TỔNG KHỞI NGHĨA THẮNG LỢI

Báo Việt Nam độc lập do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, là cơ quan truyên truyền của Việt Minh trong các tỉnh Khu giải phóng Việt Bắc. Trong quá trình chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, cùng với các tờ báo lớn của Ðảng (Cờ giải phóng, Cứu quốc…), báo Việt Nam độc lập đã góp thêm “gió” để thổi bùng ngọn lửa cách mạng giải phóng dân tộc đến Tổng khởi nghĩa thắng lợi hoàn toàn.

Báo Việt Nam Độc Lập, số 101, ra ngày 1/8/1941. (Nguồn ảnh: baotanglichsu.vn)

Phát hành bí mật, bền bỉ đón thời cơ

Năm 1940, tình hình chính trị thế giới và Ðông Dương chuyển biến nhanh chóng. Chiến tranh thế giới ngày càng lan rộng. Ở châu Âu, tháng 6/1940, Ðức đã chiếm được Paris. Ở châu Á-Thái Bình Dương, Nhật Bản mở rộng chiến tranh, đánh chiếm các thuộc địa của những nước thực dân cũ. Tháng 9/1940 quân Nhật tràn vào Ðông Dương. Ở Việt Nam, những cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Ðô Lương bùng nổ “như những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc”.

Với sự nhạy cảm chính trị hiếm có và dựa trên kinh nghiệm hoạt động cách mạng của mình, trước nguy cơ chiến tranh thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy cơ hội giải phóng của dân tộc Việt Nam. Từ năm 1938, Người từng bước tìm đường trở lại Tổ quốc. Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về tới Cao Bằng, trực tiếp cùng Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ 8 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã đưa ra nhiều quyết sách chiến lược quan trọng với cách mạng Việt Nam: Ðặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; công tác chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Ðảng và của nhân dân trong giai đoạn mới. Hội nghị cũng quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng.

Sau hội nghị, Nguyễn Ái Quốc sáng lập báo Việt Nam độc lập làm vũ khí tuyên truyền cho đông đảo quần chúng vùng căn cứ địa cách mạng. Từ ngày 1/8/1941, khi ra mắt số đầu tiên (số 101), báo Việt Nam độc lập là “cơ quan tuyên truyền của Ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng”.

Sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ 8, Nguyễn Ái Quốc sáng lập báo Việt Nam độc lập làm vũ khí tuyên truyền cho đông đảo quần chúng vùng căn cứ địa cách mạng. Từ ngày 1/8/1941, khi ra mắt số đầu tiên (số 101), báo Việt Nam độc lập là “cơ quan tuyên truyền của Ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng”.

Những năm sau đó, khu căn cứ địa mở rộng, Việt Nam độc lập trở thành cơ quan của Liên tỉnh hội Việt Minh Cao Bằng-Bắc Cạn (từ số 130 đến số 186), rồi trở thành tờ báo của Việt Minh ba tỉnh Cao-Bắc-Lạng (từ số 187 đến số 235). Ðây là tờ báo cách mạng có thời gian phát hành bí mật lâu nhất, số báo phát hành bí mật lớn nhất(1). Báo Việt Nam độc lập đã thể hiện đậm nét tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng, hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền cổ động, huấn luyện, tổ chức nhân dân đoàn kết để tiến lên đón thời cơ giải phóng dân tộc. Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, báo còn tiếp tục xuất bản thêm 8 số nữa (từ số 228, ngày 20/9/1945 đến số 235, ngày 15/12/1945). Số báo cuối cùng là số đặc biệt về Tổng tuyển cử.

Làm cho “Việt Nam độc lập”

Trang 1, số đầu tiên (101), báo Việt Nam độc lập nêu rõ mục đích: “Báo Việt Nam độc lập cốt làm cho dân ta hết ngu hèn, biết các việc, biết đoàn kết, đặng đánh Tây, đánh Nhật, làm cho Việt Nam độc lập, bình đẳng, tự do”(2).

Báo kêu gọi toàn dân đoàn kết, kêu gọi, cổ động mọi tầng lớp nhân dân từ phụ lão, thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi đến binh sĩ, hào lý, trí thức… tham gia Việt Minh. Báo tố cáo tội ác của phát-xít Nhật, thực dân Pháp đàn áp, bóc lột dân ta. Báo hướng dẫn đồng bào giữ bí mật, tham gia luyện tập quân sự, bảo vệ cơ quan, chống khủng bố, phòng địch càn phá.

Mặc dù chỉ in trên khổ giấy 20×30 cm, mỗi tháng ra ba kỳ, mỗi kỳ hai trang, nhưng nội dung của báo khá phong phú, toàn diện. Báo có xã luận phổ biến chủ trương, đường lối của Việt Minh, có Vườn văn đăng các bài thơ ca cổ động đoàn kết, cổ động tinh thần đấu tranh.

Qua các mục Tin trong nước, Tin thế giới, nhân dân có được tầm nhìn rộng rãi, ý thức chính trị được nâng cao. Báo tích cực cổ động, xây dựng đời sống mới trong những vùng tự do, biểu dương những gương người tốt việc tốt, cảm ơn những cá nhân và đoàn thể đã ủng hộ báo…Các trang báo phản ánh nhiều mặt phong trào cách mạng ở vùng căn cứ địa Việt Bắc trong giai đoạn từ cuối năm 1941 đến năm 1945.

Trong hơn bốn năm, báo Việt Nam độc lập là công cụ hiệu quả để nâng cao dần trình độ giác ngộ cách mạng của quần chúng; hướng dẫn, huấn luyện quần chúng tham gia công tác cách mạng ngày càng tích cực hơn. Ðặc biệt trên hai số báo 219, 220 ra ngày 10/6/1945 và ngày 20/6/1945, báo đã đăng bài Một cái tệ phải bỏ! và bài Chống cái tệ quan cách mạng. Những căn bệnh quan liêu, tham ô, tham nhũng, coi thường dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ðảng phát hiện, đấu tranh từ khi mới manh nha xuất hiện.

Các bài trên Việt Nam độc lập thường ngắn gọn, có phong cách giản dị, câu từ gần gũi, dễ hiểu, đặc biệt là với đối tượng là đồng bào các dân tộc thiểu số. Báo Việt Nam độc lập mở ra loại hình báo chí của các tổ chức quần chúng, hướng đến đối tượng độc giả là quần chúng đông đảo trong các Hội Cứu quốc là thành viên của Mặt trận Việt Minh (nông dân, công nhân, thanh niên, phụ nữ…) bên cạnh hệ thống báo chí của các tổ chức đảng.

Người đọc có thể thấy rõ những chủ trương, đường lối của Việt Minh được trình bày ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo, phù hợp với trình độ nhận thức của đồng bào các dân tộc. Trước những biến động lớn của tình hình như Nhật đảo chính Pháp, Ðức bại trận, Nhật bại trận…, báo đều kịp thời đưa tin, nhanh chóng bình luận và nêu rõ những việc cần làm của ta.

Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập, là “linh hồn” của báo Việt Nam độc lập. Người vừa là “Tổng biên tập”, vừa là tác giả viết nhiều bài nhất trên báo, nhiều khi kiêm cả họa sĩ vẽ tranh tuyên truyền cổ động và minh họa, có lúc tham gia vào việc in báo. Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo báo Việt Nam độc lập từ khi báo ra đời (tháng 8/1941) đến tháng 8/1942 – khi Người đi Trung Quốc và bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ trong 14 tháng sau đó.

Khi thời cơ Tổng khởi nghĩa đến, báo Việt Nam độc lập khẩn thiết kêu gọi: “Giờ khởi nghĩa đã đến… Bao nhiêu chờ đợi! Ngày giải phóng của 25 triệu đồng bào đã tới! Tiếng súng giết giặc cứu nước đã vang lừng khắp nơi… Hỡi hết thảy Ðồng bào! Hỡi những ai biết yêu nước thương nòi! Hãy mau hưởng ứng Việt Minh dưới ngọn cờ đỏ chỉ đạo sao vàng năm cánh mau đứng lên Cướp chính quyền thành lập một Chính Phủ Lâm Thời Nhân Dân hết sức rộng rãi trên nền tự do Tân dân chủ. Lúc này ai còn do dự là đắc tội với quốc dân. Chúng ta phải tự quyết định sự giải phóng của chúng ta”(3).

Dấu ấn của “Tổng biên tập” đặc biệt

Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập, là “linh hồn” của báo Việt Nam độc lập. Người vừa là “Tổng biên tập”, vừa là tác giả viết nhiều bài nhất trên báo, nhiều khi kiêm cả họa sĩ vẽ tranh tuyên truyền cổ động và minh họa, có lúc tham gia vào việc in báo. Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo báo Việt Nam độc lập từ khi báo ra đời (tháng 8/1941) đến tháng 8/1942 – khi Người đi Trung Quốc và bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ trong 14 tháng sau đó.

Với Việt Nam độc lập, Nguyễn Ái Quốc đã chuyển từ văn phong làm báo lý luận có tính chuyên nghiệp sang văn phong giản dị, thích hợp với đối tượng tuyên truyền mới là đông đảo quần chúng. Từ khi chưa về nước, Người đã nhạy bén suy nghĩ về điều này.

Ðại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: Trong lớp huấn luyện cán bộ ở Tĩnh Tây (Quảng Tây, Trung Quốc), gần biên giới Việt Nam, trước khi Bác Hồ về nước (tháng 1/1941): Bác bảo “Báo của các chú có gửi về nhưng mình không xem hết, mà ở đây cũng không mấy ai xem. Báo của các chú văn hay, chữ nhiều, nhưng khó đọc, và có đọc được cũng không mấy ai hiểu”(4).

Văn phong giản dị phù hợp với đối tượng tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc khi làm báo Việt Nam độc lập năm xưa vẫn được những người làm báo hôm nay trân trọng học tập và làm theo.

Ngô Vương Anh // https://nhandan.vn/

——————-
(1) Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã sưu tập và lưu trữ được phần lớn các số báo Việt Nam độc lập (chỉ thiếu 15 số) và 3 số Việt Nam độc lập họa bản. Toàn bộ các số báo sưu tầm đã được xuất bản lại năm 2000.

(2) Bảo tàng Cách mạng: Báo Việt Nam độc lập 1941-1945 – Nxb Lao động, Hà Nội, 2000, tr. 9

(3) Báo Việt Nam độc lập số 226, ngày 20/8/1945 – Báo Việt Nam độc lập 1941-1945 – Sđd, tr.554-555.

(4) Nguyễn Thành: Hoạt động báo chí của Ðại tướng Võ Nguyên Giáp – Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr.123.

———————————————————————————————————-

NHÂN DÂN BÌNH THUẬN NỔI DẬY GIÀNH CHÍNH QUYỀN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

Ngày 16/8/1945, đại hội họp ở Tân Trào đã thông qua “10 Chính sách lớn của Việt Minh”, thông qua “lệnh tổng khởi nghĩa” quyết định Quốc Kỳ nền đỏ, sao vàng, chọn bài tiến quân ca làm Quốc ca và bầu ra uỷ ban dân tộc giải phóng Trung ương, tức chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm chủ tịch. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn thể đồng bào ta hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta từ Bắc đến Nam đã tiến hành cuốc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng tám thành công.

Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ 14/8, một ngày sau khi Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc. Từ ngày 14 đến 18, tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng miền Bắc, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và các thị xã Bắc Giang, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Hội An.

Hòa chung cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở nhiều địa phương trong cả nước, trong những ngày tháng tám lịch sử đầy sôi động, Ban vận động Việt Minh lâm thời tỉnh Bình Thuận đã chủ trương phát động quần chúng nổi dậy biểu tình thị uy, dùng bạo lực chính trị buộc chính phủ bù nhìn phải giao lại chính quyền không điều kiện. Sau thời kỳ Mặt trận dân chủ, địch khủng bố gắt gao, nhiều đảng viên là lãnh đạo phong trào bị bắt tù đày, đường dây liên lạc với Xứ ủy Trung kỳ bị đứt; thiếu sự lãnh đạo của Đảng, nên từ năm 1941 đến đầu năm 1945, phong trào cách mạng ở Bình Thuận tạm lắng. Đến tháng 4/1945, các đảng viên bị tù từ trại tập trung Ly Hy (Thừa Thiên) và nhà tù Buôn Ma Thuột trở về, phong trào cách mạng ở Bình Thuận mới tiếp tục sôi động.

Tháng 6/1945, Ban Vận động Việt Minh lâm thời tỉnh Bình Thuận được thành lập, do đồng chí Nguyễn Sắc Kim phụ trách chung, đồng chí Nguyễn Tương phụ trách tổ chức – tài chính; các đồng chí Nguyễn Nhơn, Nguyễn Chúc, Thái Hựu phụ trách các huyện, ngành… phong trào cách mạng từng bước phát triển.

Thực hiện “Lệnh tổng khởi nghĩa” của Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc (thông qua ngày 16/8/1945 tại Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào) và thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Vận động Việt Minh lâm thời tỉnh phát động khởi nghĩa giành chính quyền. Trước khí thế cách mạng của nhân dân, ngày 24/8/1945, tỉnh trưởng Huỳnh Dư giao chính quyền cho cách mạng. Ngày 25/8/1945, hàng vạn đồng bào từ các vùng xung quanh Phan Thiết kéo về cùng với đồng bào thị xã Phan Thiết diễu hành biểu dương lực lượng và tập trung tại sân vận động Phan Thiết tham gia mít tinh mừng chiến thắng. Sau mít tinh, quần chúng lần lượt diễu hành qua các phố và các ngã đường làm cho thế cách mạng càng lên cao. Sau đó, Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh được thành lập, gồm 11 ủy viên, đồng chí Nguyễn Nhơn được cử làm Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Tương làm Phó Chủ tịch.

Sau khi giành chính quyền ở tỉnh và Phan Thiết thành công, Ban Vận động Việt Minh lâm thời tỉnh triển khai cán bộ xuống các huyện tổ chức nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền. Ở Hàm Thuận, những ngày sau đó bọn tay sai từ phủ, tổng đến xã, phường lần lượt ra trình diện, giao nộp hồ sơ, đồng triện cho cách mạng. Chính quyền cách mạng được thành lập, đồng chí Nguyễn Gia Tú được cử làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời và ông Nguyễn Hữu Hạnh làm Chủ nhiệm Việt Minh huyện. Ở các huyện Hòa Đa, Phan Lý, Tuy Phong, đồng chí Cổ Văn An được Việt Minh tỉnh phân công phụ trách đã cùng với Ban vận động Việt Minh các huyện lãnh đạo quần chúng nổi dậy giành chính quyền. Đêm 24/8/1945, lực lượng ta tiến vào phủ bộ Hòa Đa, đề lại Phan Thanh Cần và đội quản đồn Hòa Đa đầu hàng, giao ấn tín, vũ khí cho cách mạng. Ngày 28/8, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Hòa Đa được thành lập, đồng chí Cổ Văn An được bầu làm Chủ tịch, ông Lê Hòa làm Chủ nhiệm Việt Minh huyện. Ở Tuy Phong, trưa 27/8/1945, hàng ngàn người dân đổ về xã Long Hương mít tinh, sau đó kéo đến huyện đường, tri huyện Phan Thanh Đạm đầu hàng, giao ấn tín. Tối 27/8, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện được thành lập, do đồng chí Võ Đằng làm Chủ tịch. Ngày 28/8/1945, một số thanh niên trí thức người Việt, người Chăm ở Phan Lý Chàm tiến vào huyện đường, tri huyện Phạm Ngọc Cẩn nhanh chóng giao chính quyền cho lực lượng khởi nghĩa. Ngày 29/8, chính quyền cách mạng huyện Phan Lý Chàm được thành lập, ông Thanh Giác được bầu làm Chủ tịch. Ở đảo Phú Quý (lúc này thuộc huyện Tuy Phong), sau khi lính Nhật rút khỏi đảo và nhận chủ trương khởi nghĩa từ đất liền, tối 29/8/1945, một số thanh niên yêu nước cùng cốt cán Việt Minh tổ chức tước vũ khí lính ngụy, lập chính quyền cách mạng, đồng chí Huỳnh Văn Hoạch được bầu làm Chủ tịch. Ở Hàm Tân, các xã Hiệp Nghĩa, Phong Điền, Tam Tân, nơi có đảng viên cũ đã lãnh đạo nhân dân đứng lên giành chính quyền vào 7 giờ sáng ngày 26/8/1945. Sáng 29/8, các làng Bình Châu, Thắng Hải nhân dân kéo về huyện đường Hàm Tân để biểu dương lực lượng. Chiều ngày 2/9/1945, tại sân banh La Gi, nhân dân các làng xung quanh kéo về làm lễ mừng độc lập, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện được thành lập, ông Phan Thanh Bá được bầu làm Chủ tịch. Ở huyện Tánh Linh, sau khi tham gia giành chính quyền ở tỉnh, đồng chí Nguyễn Gia Tú được cử lên cùng đồng chí Lê Văn Triều tổ chức khởi nghĩa giành chính thắng lợi. Chính quyền cách mạng được thành lập, đồng chí Lê Văn Triều được bầu làm Chủ tịch. Vùng Võ Đắc do tổ chức Đảng huyện Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai) lãnh đạo, nhân dân từ cây số 14, 23, 27 tập trung về Võ Đắc tổ chức giành chính quyền. Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời được thành lập, đồng chí Ba Cường được bầu làm Chủ tịch.

Gần một tháng sau ngày khởi nghĩa, hệ thống chính quyền cách mạng từ tỉnh đến cơ sở ở Bình Thuận đã được thành lập và hoạt động. Ngày 2/9/1945, trên sân vận động Phan Thiết và các huyện, nhân dân trong tỉnh tổ chức mít tinh, diễu hành mừng ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt nhân dân Việt Nam tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Trải qua 78 năm, kể từ Cách mạng mùa thu Tháng Tám năm 1945, Đảng bộ và nhân dân Bình Thuận cùng với nhân dân cả nước tiếp tục chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ, ác liệt ấy hàng vạn người con yêu quý của quê hương đã dũng cảm chiến đấu và hy sinh anh dũng – đó là những tấm gương sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam mà Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn tạc dạ ghi nhớ công lao to lớn của những người chiến sĩ kiên cường, bất khuất đã “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Kỷ niệm 78 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 là dịp để chúng ta ôn lại truyền thống hào hùng của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tự hào và phát huy truyền thống lịch sử vẻ vang của các thế hệ đi trước, Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà càng phải nêu cao trách nhiệm, đoàn kết, đồng thuận, nỗ lực phấn đấu với quyết tâm cao nhất để thực hiện thắng lợi mục tiêu do Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã đề ra; cùng cả nước giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh, nhân dân ấm no, hạnh phúc.

https://btgtu.binhthuan.dcs.vn/

 

Views: 2236